và, những điều gửi lại

và, những điều gửi lại

a romantic sci-fi short | Như
dựa trên những bản nhạc có thực

...có một người bạn cũ ra đi từ ngày anh chưa mở mắt, bỗng dưng trở về từ miền biên viễn, đem theo mình những nhắn gửi lạ lùng từ một nơi anh chưa bao giờ biết đến, mà lạ một nỗi vẫn in sâu vào tiềm thức anh, yên lành mà day dứt như một nỗi nhớ nhung.


Rồi ánh sáng sẽ đưa cậu về nhà

kỳ tuyết tan, 2015

 

Ngày hai mươi tháng Hai, chương trình âm nhạc Residency của kênh BBC Radio 1 lên sóng với người dẫn là Jon Hopkins, người nhạc sĩ vừa gây ngạc nhiên trước đó không lâu với Immunity, một album nhạc điện tử đẹp như mơ, với nền tảng từ các giai điệu mềm mại viết cho keyboard, đan cài cùng tư duy tuyệt hảo về tiết tấu, cấu trúc, chi tiết và không gian.

Khách mời của anh là Kieran Hebden, người nghệ sĩ được đông đảo giới mộ điệu ở nước Anh và thế giới biết đến với nghệ danh Four Tet. Bản thân Four Tet cũng thành danh với phong cách  tinh tế, có tư duy tuyệt vời về tiết tấu và giai điệu, tạo ra những tác phẩm vừa hiện đại vừa huyễn hoặc, đủ sức mạnh để làm rung chuyển bất kỳ câu lạc bộ đêm nào tại London, cũng vừa đủ dịu dàng để an ủi người nghe, như cảm giác buông mình xuống một chiếc giường êm giữa tinh tú xoay quanh khi được về nhà sau một ngày thật dài.

Trong một giờ phát sóng, họ trò chuyện về sự phát triển của dòng nhạc điện tử kết hợp những âm thanh thể nghiệm tại nước Anh, về vẻ đẹp và cá tính khiến nhánh điện tử của Anh cơ hồ tách biệt với dòng chảy EDM đang tuôn tràn trên toàn thế giới. Hôm ấy, trong chừng 10 bài hát mà cả hai nhạc sĩ chọn phát có bản remix mà Kieran thực hiện cho Fix You - một trong những đĩa đơn được yêu thương nhất của ban nhạc alternative rock Coldplay. Qua bàn tay của Kieran, Fix You dường như chạm đến định mức cuối cùng của khuây khỏa, trong một không gian chỉ có líu ríu chim kêu dẫn dắt giọng Chris Martin len lỏi qua âm quyển nơi gió gõ tí tách lên những chiếc chuông thủy tinh.

Chris chân thành hát “Rồi những ánh đèn sẽ đưa cậu về nhà, thắp sáng cậu từ xương tủy, và mình sẽ cố gắng chữa lành cho cậu.”

Một tuần sau đó, trên kênh Youtube của chính ban nhạc, Coldplay viết “Chúng tôi xin gửi bản remix (chính thức) đẹp tuyệt của Fix You do Four Tet thực hiện năm 2005, và đã không bao giờ được phát hành.”

Người nghe cảm thán, rằng bản remix này như một hạt mầm đã được giấu kín ở đâu đó suốt mười năm đằng đẵng, để đến hôm nay chợt dịu dàng nhú chồi non sau kỳ tuyết tan.

Tất Nhiên Tớ Vẫn Yêu Cậu

giữa xuân, 2049

Hạ tuần tháng Tư, mặt biển Đại Tây Dương xanh phỏng rẫy. Từ trên trực thăng, Trịnh biết không khí hôm nay rất trong, vì anh có thể nhìn thấy chân trời nhẹ viền một đường sáng bạc. Rồi anh lại nhìn về gần hơn, nơi chiếc bệ đáp đang nhẹ nhàng đưa mình theo chuyển động của những con sóng. Từ độ cao này nhìn xuống, dòng chữ sơn trắng muốt trên mặt chiếc bệ nom như một đứa trẻ nắn nót viết lên tấm bảng đen trong lớp vỡ lòng, rằng “Tất Nhiên Tớ Vẫn Yêu Cậu”. Trịnh thì thầm dòng chữ trắng bên dưới. Anh thấy sống mũi mình run lên.

Tất cả những máy móc chung quanh đang thu nhận toàn bộ dữ liệu về các tầng khí quyển, độ ẩm, hướng gió và tốc độ gió, về chuyển động của dòng hải lưu. Các tiêu chuẩn kỹ thuật của Tất Nhiên Tớ Vẫn Yêu Cậu đến tận con ốc vít cuối cùng đều được đo lường chặt chẽ. Trịnh nghe tiếng các đồng đội của mình chốt đi chốt lại những con số cùng với nhóm kỹ thuật của bệ đáp, nhưng không nghe rõ ai đang nói điều gì với nhau.

Anh đang ở đó, cùng tất cả mọi người, mà cứ như cũng không còn ở đó. Anh thấy chính mình ngồi ở thư viện của trường đại học, gục đầu bền chồng sách và tài liệu dày trong một buổi tàn đêm hửng sáng. Theo những ô cửa mở, không khí của một đêm mùa xuân len lỏi vào trong tòa nhà, đượm hơi sương mờ, cỏ mềm và những cánh hoa chưa nở hết.

Trịnh đã uống đến cốc cà phê thứ sáu, mặt trời sắp lên, và khi anh gần như thiếp đi sau khi để mọi manh mối về trọng lực của lỗ sâu mất hút, chiếc ti vi lớn ở sảnh ngoài thư viện bỗng dưng được ai đó mở lên. Có những âm nhiễu tràn đến, những tiếng bước chân, những lời xì xào và những tiếng thở thảng thốt. Chao ôi, điều gì đang xảy ra? Trịnh nghĩ anh đang nằm mộng. Trong mơ, có một người bạn cũ ra đi từ ngày anh chưa mở mắt, bỗng dưng trở về từ miền biên viễn, đem theo mình những nhắn gửi lạ lùng từ một nơi anh chưa bao giờ biết đến, mà lạ một nỗi vẫn in sâu vào tiềm thức anh, yên lành mà day dứt như một nỗi nhớ nhung.

…Một ngày giữa mùa xuân, tất cả những đài phát thanh và truyền hình, tất cả các cơ quan báo chí lớn và nhỏ, thiên tả và thiên hữu trên toàn thế giới, đã phát đi cùng một tin tức. Những bản tin cộng hưởng vào nhau, liên hồi kỳ trận, như những dợn sóng miên man lan tỏa, dữ dội đến mức nhiều người đã bật khóc.

Trịnh tỉnh dậy vào tầm tám giờ sáng, giữa ồn ào sôi nổi và trong ánh dương hồng lựng soi từ cửa sổ.

Anh cũng không rõ mình có nằm mơ hay không nữa. Nhưng day dứt và chờ đợi thì quả thực là đúng rồi đấy.

Vì người bạn yêu dấu của chúng ta, ra đi từ năm 1977, bặt vô âm tín năm 2028, lang bạt kỳ hồ thêm bảy năm dài giữa trong bóng tối lan rộng, bỗng dưng gửi về những líp bíp báo tin bằng sóng điện từ, rằng cậu ấy đang trở về từ không gian giữa các vì sao.

-

Tất nhiên chúng tớ vẫn yêu cậu. Trịnh lại thì thầm, không biết lần thứ mấy.

Những chiếc trực thăng lượn vòng bên trên bệ đáp bắt đầu lùi ra xa, để lại không gian hoàn toàn trống trải. Xen kẽ với động cơ chao chát và máy móc lách tách, Trịnh nghe thấy tiếng người kỹ sư trưởng của nhóm bệ đáp bắt đầu đếm ngược. Ba mươi. Hai chín. Hai tám. Trịnh nhoài người ra khỏi ô cửa trực thăng, ngước mắt nhìn lên. Một đốm sáng chói xuất hiện trên đỉnh trời. Không khí nén lại với sức căng mỗi lúc một tăng. Hai bốn, hai ba, cả phi thuyền và bệ đón đều ở điều kiện tốt. Và kia, đốm sáng đó nở thành một đóa hoa lửa rực rỡ khi phần đuôi của phi thuyền bắt đầu đốt nhiên liệu để điều chỉnh hướng và tốc độ hạ cánh. Trịnh đã có thể nhìn thấy phi thuyền hiện rõ ràng hình dạng của một viên đạn trắng viền xanh lam, cùng với phần đuôi rực cháy dần hạ xuống theo một đường thẳng tuyệt hảo. Anh nghe thấy cả nhóm mình nín thở. Mười. Chín. Tám. Phi thuyền dừng đốt nhiên liệu. Chân đáp mở tối đa. Bệ đáp ở vị trí chuẩn xác. Bốn. Ba. Hai….

Hạ cánh.

…Trong một tích tắc, Trịnh ngỡ đâu buổi mờ sương của mùa xuân hồi mình còn trẻ dại đã len lỏi đến nơi này bằng một cách thức gần như bùa mê. Mười bốn năm nén lại còn một cái chớp mắt, mà chớp mắt đã thấy vật đổi sao dời. Anh đã dày dạn hơn, với kiến thức và biết bao cố gắng phủ lên anh như những lớp trầm tích. Chúng cho anh khả năng tham gia nhóm công tác của Cơ quan, để anh có thể ở đây và chứng kiến giây phút này. Tràn trề trong anh là một cảm giác thật lạ, rõ ràng anh đã lớn lên nhiều biết bao, mà đồng thời cũng ngơ ngác và lặng người như hồi anh còn trẻ.

Trịnh nhìn xuống, nơi phi thuyền rỡ ràng và vững chãi đứng trên Tất Nhiên Tớ Vẫn Yêu Cậu, nhẹ chao nghiêng theo những con sóng nhịp nhàng bên dưới.

Ôm trọn bên trong là điều mà Trịnh đã đợi chờ rất lâu. Một cách riêng tư, rất lâu.

Người bạn ra đi từ mặt đất buổi anh còn chưa thành hình dáng, đã kịp du hành đến nơi xa xôi nhất khi anh còn chưa lớn lên, từng mất hút trong những năm tháng thiếu thời của anh, và niềm mong đợi của anh trong suốt mười bốn năm trưởng thành.

Cậu ấy đã ở đây rồi.

Chào cậu về nhà, Voyager Một.

Vẹn nguyên là cậu, và rì rào gió

cuối hạ, 2049

…Mãi về sau, khi tất cả chỉ còn là chuyện kể, vẫn còn có người ở Cơ quan nói rằng những ngày tháng có nhóm Voyager luôn là một trong những điều kỳ diệu nhất mà Cơ quan từng biết đến. Mà nhắc đến nhóm, tức không chỉ Voyager những năm một chín bảy mươi - một chín chín mươi với Carl Sagan ngâm nga Đốm Xanh Mờ, mà còn là Voyager của những năm giữa thế kỷ hai mốt, với “Thiếu tá” Thomas Jones, Peter Eno, Khang Trịnh, JW “Wanja” Kim, Lucy D. Winston và các nhà khoa học khác đã đón chính Voyager Một trở về nhà, và đã giải được một trong những thông điệp đẹp nhất mà Trái đất từng nhận được.

-

Khi Cơ quan quyết định tái lập nhóm, tất cả mọi người nín lặng. Nhưng không thể nào chối cãi được nữa, Voyager Một đã xuất hiện trong vùng rìa của hệ mặt trời, và tín hiệu radio yếu ớt gửi về các đài quan sát và kính thiên văn mạnh mẽ nhất đều báo cùng một dấu hiệu, rằng phi thuyền đang trên đường trở về, với tốc độ hơn gấp đôi vận tốc lúc ra đi.

Phát hiện này khiến không chỉ Cơ quan và đồng sự tại các châu lục lo ngại, mà còn trở thành một chủ đề tranh cãi trên bàn nghị sự của các Tổng thống và Thủ tướng toàn cầu: Phi thuyền rất có khả năng đã bị can thiệp. Làm sao NASA có thể chứng minh rằng Voyager Một trở về một cách hòa bình, mà không mang theo bất cứ hiểm họa nào từ vũ trụ tối đen mà chúng ta chưa biết đến. Có phải một giống loài siêu việt hơn chúng ta đã đọc được địa chỉ của Địa cầu mà Voyager Một mang theo, và quyết định gửi một loài vi khuẩn, một giống ký sinh trùng theo phi thuyền về đây để biến chúng ta thành nô lệ? Bao nhiêu người trong các ông quyết định rằng sẽ phá hủy Voyager Một bằng một đầu đạn hạt nhân ở gần sao Hỏa? Chúng ta có sẵn lòng đặt cược sinh mệnh của những người thương yêu bằng một khả năng hết sức viễn vông rằng có thể, chỉ có thể mà thôi, rằng Voyager Một sẽ mang về những điều mà chúng ta chưa bao giờ biết, từ một chân trời mới lạ, một tinh cầu xa xôi, nơi có những sinh vật cũng ngóng trông tìm được bầu bạn ở nơi khuất nẻo nào đó trong vũ trụ tối tăm?

Cuộc tranh luận kéo dài gần một thập kỷ, khi tín hiệu từ Voyager Một mỗi lúc một ổn định. Cứ cách một tháng, các đài quan sát trên toàn cầu đều gửi cho nhau bao nhiêu là dữ liệu, hình ảnh quét và các bản phân tích. Không một con số nào cho thấy hiểm họa, và Voyager Một vẫn đang trên đường về nhà, theo một đường đi chuẩn xác đến độ không thể nào chỉ là ngẫu nhiên. Sự yên tĩnh của nó khiến nỗi lo lắng thường trực trên Trái đất dần nhòa đi, len lỏi vào là những tia hy vọng. Biết đâu ta lại tìm được ai đó cũng đang ngóng nhìn ta ở chân trời?

Thế rồi, các Chính phủ lớn nhất hành tinh cùng đưa ra quyết định: Chúng ta sẽ phóng một phi thuyền lên quỹ đạo Mặt trăng, khi Voyager Một sẽ đi qua vào độ giữa xuân ở bắc bán cầu. Phi thuyền ấy sẽ phóng một trường điện từ làm tê liệt động cơ của Voyager Một, đưa vào khoang chứa hàng thật rộng, nơi cả hai sẽ cùng trở về trên một bệ đáp được canh chuẩn xác ở chừng hai trăm dặm ngoài bờ biển Đại Tây Dương.

Sau quyết định ấy, Cơ quan mở rộng Nhóm Voyager, vốn chỉ có những kỹ sư điều hướng và liên lạc với phi thuyền trong một thập kỷ, kiên nhẫn bắt lấy từng tín hiệu nhỏ bé trong khi “bất an” là hơi thở chung của những bản tin phát sóng trên toàn cầu.

Trước hết là JW Kim, cái anh kỹ sư kiên nhẫn vô biên, một trong những người đã giữ liên lạc với Voyager Một mấy năm qua, lúc thấy nhóm mới bỗng nói đây sẽ là nơi anh đi cùng thêm ít nhất năm mươi vòng mặt trời nữa. Rồi có Lucy D. Winston đến từ miền nam, một trong những người xử lý thông tin cần mẫn nhất ở Trung tâm Kennedy nơi Nhóm đặt văn phòng chính, có “Thiếu tá” Tom Jones với hiểu biết về phần cứng và vật liệu đáng kinh ngạc, có Peter Eno ít nói và đĩnh cho phần khoa học máy tính, và Khang Trịnh, nhà vật lý lý thuyết năm đó còn chưa bước qua tuổi ba mươi, đã vượt qua hàng trăm đơn ứng tuyển thực tập khác để tham gia nhóm, mong muốn thu hái những kiến thức cần thiết cho một lý thuyết du hành liên sao.

Hoặc cũng là để bước thêm một bước tiến vào vùng của những giấc mơ tí tách.

Lúc ấy, Trịnh nói với Tom, “Cháu nghĩ biết đâu phải nửa đời sau của anh mới tìm ra lời giải đáp chú ạ, cho cả lý thuyết ấy và giấc mơ nọ.”

“Lúc đó cũng vừa vặn năm mươi vòng mặt trời của Wanja rồi đấy.” Thiếu tá nói, lúc đó như một lời trêu.

Về sau, Tom mới nghĩ lại, hóa ra tất cả đều có cơ duyên. Cả những vòng quanh mặt trời và câu chuyện âm nhạc của JW Kim, những ngày nhiều ánh sáng của Lucy, người bạn trong mơ và lý thuyết của Trịnh, cùng với sự đồng cảm sâu nặng Peter

Cứ như Voyager Một đã tìm thấy họ.

Hay nói đúng hơn, Nausicaa đã chọn lựa họ mà gửi lòng tin.

-

Tháng Tám năm 2049, ở trung tâm nghiên cứu Kennedy có một gian phòng thật rộng, sáng đèn bất kể ngày đêm, và dĩ nhiên lúc nào cũng có ít nhất một vài thành viên của nhóm Voyager ở đó. Ban đầu, họ khoác lấy vai nhau, mím môi tròn mắt nhìn cỗ phi thuyền lão làng được đưa về, nằm đĩnh đạc và vẹn nguyên trên chiếc bục lớn ở giữa phòng, nom phi thực như một hạt bụi vương lại trong nếp gấp của thời gian. Trịnh dành mấy ngày trời chỉ để đến và chiêm ngưỡng cậu ấy, sứ giả mà cha ông của anh đã gửi đi để tìm kiếm những điều mà họ chưa bao giờ biết đến. Cuộc trở về của cậu cứ như đã bước ra từ giấc mơ của anh, khiến anh cười mãn nguyện và xúc động tận tâm can.

Rồi công việc bắt đầu gấp rút. Các kỹ sư tiến hành sao chụp mọi góc cạnh, và thận trọng tháo rời từng mô-đun nhỏ, lại tiếp tục sao chụp từng cấu trúc nhỏ của các mô-đun, lấy mẫu vật liệu trên bề mặt, đưa vào những hệ thống phân tích nhạy bén nhất mà Cơ quan có thể cung cấp. Tổ kỹ sư của Thiếu tá trông coi việc ấy. Khi lớp ngoài tháo dỡ ra gần hết, đến lượt Peter và Lucy nhìn vào bộ nhớ trung tâm của phi thuyền, gỡ bỏ từng lớp bảo mật để đi đến tận cùng từng ngày mà Voyager Một đã trải qua trong không gian. Tổ của Wanja bắt đầu tháo rời bộ phận liên lạc của Voyager, bao gồm chiếc Đĩa vàng ghi Âm thanh Trái đất, và bắt đầu xem xét nó một cách thận trọng để xem có bất cứ sự khác biệt nào của bản ghi lúc ra đi và những gì còn sót lại lúc trở về.

Trong số các tổ, Trịnh thích đến chỗ Wanja nhất. Góc làm việc của anh ta có không khí của một phòng thu âm, hay ít nhất là có hơi thở của âm nhạc với các bàn chỉnh âm và các màn hình hiển thị những đoạn sóng âm của từng bản ghi của Đĩa vàng. JW Kim đã gần bốn mươi, nhưng khuôn mặt anh, những cử chỉ nhỏ và liên tục, cách đôi mắt đã bắt đầu in dấu chân chim của anh nheo lại, vẫn cho Trịnh cảm giác như anh đang tách khỏi thời gian chung và lùi vào thời gian của riêng anh, nơi âm nhạc là mạch nguồn nuôi dưỡng khi Wanja khi cố níu lấy những tín hiệu xa xôi qua mười năm ròng rã. Âm nhạc dòng chảy bao quanh góc nhỏ này của phòng nghiên cứu, qua những câu chuyện mà Wanja kể cho anh nghe về ba mươi mốt bản thu mà Cơ quan đã gửi theo Voyager Một vào vũ trụ năm nào.

“Cậu Trịnh, tôi luôn cảm thấy việc hồi đó người ta chọn gửi đi rất nhiều âm nhạc là một điều thật đẹp… Người ta cứ nói toán học là ngôn ngữ khoa học chung của loài người chúng ta và các giống loài khác trong vũ trụ. Nhưng có bao nhiêu cá thể trong đại dương sinh mệnh của chúng ta hiểu được những công thức phức tạp và tinh vi nhường ấy. Nhưng âm nhạc, lại khác. Âm nhạc hiện hữu ở bất cứ nơi nào có khí quyển, mà những nơi ấy - các hành tinh - mới là nơi cơ may có ai đó lắng nghe được những rung động nhỏ nhất của không khí, gần gũi tựa như hơi thở. Một nốt nhạc có thể vừa diễn tả niềm vui và nỗi buồn hiệu quả hơn mọi ngôn từ. Một khung nhạc thôi đã có thể mở rộng không gian. Một bản nhạc có thể vừa chính xác như một bài toán, vừa diễm lệ như một bài thơ, lại vừa riêng tư như một ký ức.”

“Cơ quan lúc ấy đã quyết định gửi đi ba mươi mốt trong số những bản nhạc đẹp nhất mà thế hệ ông cha của chúng ta từng có. Concerto của Bach, Lưu thủy của Trung Hoa, Tổ chim hạc của Nhật Bản, điệu trống của người Senegal, Giao hưởng số 5 của Beethoven, bài dân ca người Peru hay hát trong các lễ cưới, và Đêm thăm thẳm sâu, đất mênh mang lạnh của Blind Willie Johnson… Trịnh này, lúc tôi nghe xong toàn bộ các bản nhạc ấy, tôi đã nghĩ, giả như thôi, nếu tôi là một sinh vật sống trên một hành tinh khác, đi trọn đời mình quanh một ngôi sao khác… Nếu một ngày nào kia bắt được Đĩa vàng, tôi sẽ mở những âm thanh đáng yêu kỳ quặc này và nhìn về phía ngôi sao của mình đang lặn xuống ở chân trời, vừa thảng thốt khi có cảm giác chạm đến một mối liên kết sâu xa vĩ đại, vừa nhỏ nhoi vì mối liên kết ấy, chỉ riêng việc gửi một tín hiệu đến đây, đã là qua nhiều triệu năm mất rồi.”

-

Một hôm cuối tháng Tám, gió ở Đại Tây Dương bắt đầu xoắn vào nhau theo những chuyển động mạnh lên dần của khí quyển vào mùa dông bão. Bầu trời ngả xám đâu đó ở tít mù xa và trong không khí ở Trung tâm có một nỗi bồn chồn len lỏi.

Tom ngồi bần thần trước kết quả phân tích thứ tám mươi lăm về vật liệu phủ trên bề mặt của Voyager Một. Thiếu tá bảo tất cả các kỹ sư ra ngoài một lúc, để ông có thời gian thấu hiểu điều gì đang diễn ra trên những dòng chữ và số chi chít từ bản phân tích dài. Ở một phòng khác, Lucy và Peter một lần nữa sắp xếp lại nhật trình của phi thuyền, xác tín điều khó tin đến mức họ cứ mãi làm việc ở hai góc khác nhau của chiếc bàn mà không thể nói gì với nhau, dẫu họ nghĩ họ dường như đã nói với nhau rất nhiều rồi thì phải. Còn ở phòng âm nhạc của Wanja, lúc anh kỹ sư hô lên một tràng dài, tiếng kêu của anh khiến cốc trà phổ nhĩ đã pha loãng đến nước thứ tư của Trịnh rung lên, mặt nước trà đỏ dợn những vòng sóng nhỏ. JW dừng trình duyệt máy tính, vốn đang quét đến đoạn âm thanh cuối cùng của chiếc Đĩa vàng.

“Trịnh, cậu sẽ không tin điều này đâu.”

Trịnh ngước qua nhìn anh. Wanja vùi mặt vào hai lòng bàn tay, để hơi thở gấp gáp của mình lọt qua các kẽ da run rẩy.

“Tôi vừa nghe thấy điều gì đó…. khác.”

Chiếc bút của Trịnh dừng lại, đầu bút in đậm mực vào sổ ghi chép.

“Ở cuối cùng của bản Đêm thăm thẳm sâu… rất nhỏ, đến độ phải nghe thật kỹ, phải khuếch âm nhiều lần… nhưng mà, cậu ạ, tôi đã nghe thấy có đâu đó tiếng rì rào như gió thổi, và ting tang như tiếng chuông kêu.”

-

…Thật lâu về sau, khi cuộc hành trình một lần nữa lại bắt đầu, cả nhóm cùng đứng ở ban công của Trung tâm và nhìn ra chỗ mũi đất nhô ra biển, chiếc tên lửa cao lớn hùng dũng đang thổi rực phần đuôi, đẩy nó lao lên không trung theo một đường bay tuyệt đẹp. Cả nhóm ngước nhìn theo, đến khi hình dạng và màu sắc trắng muốt của tên lửa chìm vào thiên cầu. Ở bên trên khí quyển, từ trong lòng mũi tên trắng ấy, những phi thuyền khác sẽ lại tiến vào không gian, đem theo quà tặng tuyệt đẹp từ một hành tinh cô đơn gửi đến một hành tinh khác hẳn cũng đơn độc trong một góc tối tăm khác của dải Ngân hà.

Dưới bầu trời cao vút, Lucy đưa tay vuốt lại mái tóc nâu rối do gió thổi, thở một hơi thật dài. Đôi mắt của chị nheo lại, những đường chân chim dịu dàng sâu thêm theo ngày tháng. Và chị nói, êm ái như một ngày mùa hạ:

“Các anh các cậu có nhớ khi chúng ta tìm ra thông điệp ấy hay không? Cảm giác bí ẩn và rạo rực ấy, sự sợ hãi và niềm kinh ngạc của ngày hôm ấy, khi tất cả chúng ta cùng bước vội qua những đoạn hành lang để vào phòng họp chính. Trong chớp mắt, mọi thứ đều đã khác trước. Có phải chúng ta đã đi tìm Nausicaa hay là xứ sở ấy đã tìm thấy chúng ta? Dù thế nào, tôi vẫn luôn mường tượng tình cảnh ấy giống như một cái nắm tay bất ngờ siết chặt, dẫn chúng ta bước vào một hành trình có khi sẽ dài hơn toàn bộ thời gian của chúng ta cộng lại…”

“Tôi không biết mọi người ra sao, nhưng không một ngày nào trong chặng đường mà chúng ta vừa cùng nhau đi qua tôi lại không nhìn thấy ánh sáng. Và mỗi ngày làm việc, dù vất vả đến đâu, đều như đang trở về nhà.”

 

Ôi, âm nhạc!

cuối mùa thu, 2049

Tháng Mười Một, mùa bão vừa đi qua nơi này. Mặt biển ở ngoài khơi ngả màu hơi xám, chuẩn bị đón những ngày trở lạnh sắp tới. Thiếu tá luôn nghĩ đây là mùa dễ chịu nhất trong một năm: các kỹ sư và nhà khoa học ở Trung tâm đều bắt đầu mặc áo len, áo khoác vải tuýt dày, đi qua đi lại giữa những phòng thí nghiệm với cốc nước nóng trên tay, nói chuyện tinh vân, thiên hà và các hệ hành tinh trong hơi thở bắt đầu nhả khói, nhìn kiểu gì cũng thấy giống như đang ở giữa một ngôi nhà thật rộng.

Năm nay thì có hơi đặc biệt hơn một chút, vì những lời bàn tán râm ran khắp các ngõ ngách, những cái vỗ vai mà Nhóm Voyager cứ hay bất thình lình nhận được khi đang đi từ phòng thí nghiệm này sang phòng tư liệu khác, từ cả những nhân vật kỳ cựu nhất cho đến những cô cậu thực tập sinh trẻ măng, rạng rỡ, luôn chực chờ câu hỏi trên môi: “Anh Kim, thực ạ? Có một thông điệp từ hành tinh khác gửi đến chúng ta ạ?”

Hay, “Cậu Eno có muốn nhận thêm chuyên viên vào nhóm phân tích bộ nhớ không? Cái khả năng rằng Voyager đã hư hỏng nặng, rồi được chữa lành, rồi được gửi về nhà… Chà, hẳn là có nhiều việc phải tìm hiểu lắm, ví dụ như bằng cách nào mà họ tăng tốc con tàu để một hành trình năm mươi năm lúc đi chỉ còn mười bốn năm lúc về… Hay là vì sao trong bảy năm chúng ta hoàn toàn mất dấu phi thuyền. Đấy, chừng đó người trong tổ sao làm xuể, cậu nhận thêm tôi đi?”

Thiếu tá nghe chuyện chỉ cười, sờ cằm râu ria xám, nói với bốn người còn lại, “Các cô các cậu muốn lấy thêm bao nhiêu người, miễn ông Giám đốc Trung tâm không phàn nàn thì tôi nhận tất. Mà nói họ, hỏi nhiều thế thì khi nào chúng ta mới đủ thời gian để nghiên cứu cho xong hả?”

Cười là cười vậy, nhưng đến người dày dạn như Tom cũng cảm thấy hơi bất an. Trong nhiều ngày liền, ông tập trung mọi dữ liệu của các thành viên còn lại, đọc kỹ từng thông số, cố gắng để bản thân đừng tưởng tượng quá mức. Thiếu tá gửi mẫu và kết quả kiểm nghiệm sơ bộ về vật liệu phủ trên bề mặt Voyager Một đến tất cả các viện nghiên cứu giỏi nhất, để rồi thu về kết luận gần như là tương đồng xuyên suốt, rằng lớp phủ tinh vi ở cấp độ hạ nguyên tử của Voyager Một có tính liên kết và phản ứng cực nhạy, gần như là chuỗi thần kinh của một bộ nhớ trung tâm. Các hạt phủ như một lớp màng bảo vệ, để với các tương tác lượng tử có thể giúp việc tái tạo các hư hỏng vật lý diễn ra một cách nhanh chóng. Khi Voyager Một được phóng đi, công nghệ của thế kỷ trước không thể nào có được một lớp vật liệu tinh vi như vậy. Các giáo sư giỏi nhất về vật liệu lượng tử cũng không thôi choán ngợp, rằng nếu chúng ta tự phát triển lớp vật liệu này thì có thể mất thêm ít nhất là bảy, tám mươi năm.

Dữ liệu từ Peter và Lucy chỉ càng đắp thêm một lớp khẳng định vào tính hoang đường. Tổ của Peter dành hơn bốn tháng để phá những lớp bảo mật siêu phức tạp ở tận sâu trong bộ nhớ của Voyager Một, để phát hiện ra rằng trong các năm từ 2030 đến 2035 theo thời gian Trái đất, Voyager Một đã bị hỏng nặng, gần như nát thành các mảnh vụn và được lắp ghép lại lần nữa. Mỗi một công đoạn đều được thực hiện một cách thận trọng và cầu toàn tuyệt đối. Peter thi thoảng lại bật cười, cảm thấy sao mà kẻ lạ mặt này lại giống mình quá, mỗi lần làm cái gì đều cứ phải thử đi thử lại, mỗi một chi tiết đều phải nằm ở vị trí chính xác, bất di bất dịch, mỗi một đường đi nước bước đều như gửi gắm sự chuyên chú khó lòng chia sẻ cùng ai. Tận tụy như vậy mà lại dường như không muốn cho ai biết, cũng không cần thiết phải bày tỏ, nên đành giấu thật sâu trong hạt nhân dữ liệu, rồi lại bao bên ngoài là tầng tầng những lớp mã hóa. Mỗi một lần bẻ khóa xong, Peter lại thấy mình bước được thêm một bước, lưng chừng thôi, nhưng cũng là đến gần tâm tư ấy thêm một chút.

Ai đó, ở nơi nào kia, nhọc lòng như vậy chỉ để gửi một vật thể xa lạ trở về nhà nguyên vẹn. Họ muốn nói gì?

Về chuyện nói năng và gửi gắm, JW tách phần âm thanh đã bị thay đổi trong bản Đêm thăm thẳm sâu của Đĩa vàng thành một bản ghi âm riêng. Anh gọi thêm một số kỹ sư âm thanh đến giúp, lọc qua nhiều tầng nhiễu, nghe đi nghe lại từng tiếng động nối nhau, tựa hồ một giai điệu, lại tựa hồ không có một âm luật nào cụ thể, mà chỉ như những hơi gió thổi qua một nơi hoang vắng, qua những ting tang ting tang tản mát kiểu arppegio mà Wanja cứ mãi nghĩ sao mà gần với tiếng chuông kêu.

Đến đây thì lý trí và hoài nghi nhất cả nhóm là Thiếu tá cũng không thể chối từ. Trong những khoảng nghỉ ngắn ngủi, ông bước ra ban công, bỏ một viên kẹo cam vào miệng như một cách giữ mình đừng hút thuốc lá. Khi mùi cam mượt mà lan ra trong miệng, Tom thấy như mình đang ở những điều viển vông nhất, như một phép màu dần dần trở thành sự thực, nhưng vẫn chối từ không cho ông biết lý do.

-

Ngay trước Giáng sinh và chỉ còn cách buổi báo cáo với Cơ quan chưa đến hai tuần, cả năm người cùng ngồi trước tấm bảng đen kiểu cũ theo sở thích chung hơi khác thường của cả nhóm. Trên bảng là chi chít các công thức mà Trịnh hệ thống hóa, từ nghiên cứu vật liệu phủ của Thiếu tá, từ dữ liệu trong bộ nhớ trung tâm mà Peter lấy ra, ghi những dòng chữ “tiếng gió”“chuông kêu” ở một góc theo hướng dẫn của Wanja.

Trịnh đằng hắng, rồi bắt đầu:

“Mọi người đều biết, mình muốn tham gia nhóm để bởi vì luận án nghiên cứu của mình về du hành liên sao, và Voyager Một là vật thể duy nhất từ Trái đất đã đi được rất xa và trở về với rất nhiều câu hỏi. Phi thuyền đã đi đến đâu, vì sao lại mất tín hiệu trong bảy năm? Trong năm trên bảy năm đó, nó đã đáp xuống nơi nào và đã được ai sửa chữa? Vì sao họ phải làm một cách chú tâm đến vậy? Bằng cách nào họ có thể gửi Voyager trở về với hình dạng nguyên vẹn và cấu trúc được nâng cao tuyệt diệu? Nếu như đoạn ghi âm ở Đĩa vàng là có chủ ý, thì họ đã gửi lại gì cho chúng ta?”

“Mình đã đọc tất cả những tài liệu về vật liệu phủ từ nhóm chú Tom, rằng ngoại trừ công năng bảo vệ, lớp vật liệu hạ nguyên tử ấy còn có thể bám vào các lớp vật chất bên dưới, ghi nhận cấu trúc, truyền về một bộ nhớ chủ và giúp tái tạo từ thiết kế gốc của cấu trúc đến tận cấp độ hạt cơ bản. Mình cũng đã nói chuyện với chị Lucy và anh Peter về bộ nhớ trung tâm của Voyager Một. Peter, anh nói Voyager một đã được lắp thêm một máy tính lượng tử phải không?”

Peter điềm đạm nhìn lại sổ ghi chú của mình, rồi tiếp lời, “Phải. Về phần nguyên do… nếu kết nối với dữ liệu của Thiếu tá, tôi nghĩ chúng ta có thể tin rằng phần được lắp thêm có vai trò như một bộ nhớ gốc, ghi nhớ tất cả cấu trúc của phi thuyền. Mọi người ạ, cảm giác rằng có ai đó đã đi xa hơn chúng ta về công nghệ như vậy thực khiến tôi choáng váng. Những thứ họ thêm vào Voyager Một, nếu tất cả những người giỏi nhất trên Trái đất tự phát triển thì ít nhất cũng phải thêm gần một thế kỷ nữa.”

“Tôi nghĩ là hơn thế đấy… Phải vài thế kỷ, hay cả ngàn năm.” Trịnh tiếp lời một cách ngập ngừng, nhưng biết đâu anh đúng.

“Tôi nghĩ Voyager đã đi qua một lỗ sâu.”

Phòng họp bỗng im lặng lạ thường.

“… Hơn hai thế kỷ kể từ khái niệm cầu Eintsein - Rosen ra đời, tất cả các nhà thiên văn đều  mong ngóng tìm thấy nó, tất cả các nhà vật lý đều đã từng ít nhất một lần cố truy tìm lời giải cho sự ổn định của lỗ sâu. Phương trình ấy chưa có nhà vật lý nào của Trái đất giải ra trong vòng hai trăm năm qua. Nhưng biết đâu, lời giải thật không nằm ở đấy?”

Lucy nói, gần như thì thầm: “Cậu đang nói đến…”

“Đúng rồi, chị Lucy. Cầu Einstein - Rosen không ổn định, vật chất đi qua đều rất dễ sụp đổ. Nhưng nếu cứ đi vào và vỡ nát, rồi lại tự tái tạo từ một nhóm hạt gốc thì sao? Chúng ta phải mất bao lâu để mơ đến điều ấy, chứ đừng nói là phát triển được công nghệ cho phép điều đó?”

Thiếu tá đứng dậy, bước đến nhìn tấm bảng chi chít thông tin, lại nhìn sang Trịnh và những người còn lại. Ông gãi gãi mái đầu hoa râm, nhắm mắt. Từ bóng tối trước mặt, thời gian xoay chuyển. Vào một ngày mà phần lớn nhân loại đều đã lãng quên, kẻ lữ hành từ Trái đất đã lỡ rơi vào một miệng hố hiểm nguy và bất ổn, rồi hỏng hóc đến phát thương, rồi được đón lấy, sửa chữa, bảo bọc bằng một khả năng phi thường và sự chăm chút đáng kinh ngạc, rồi được gửi lại theo địa chỉ đọc được từ trên mặt Đĩa vàng. Trên đường trở lại, Voyager vỡ òa thành đại dương cát hạt, hạt vỡ tiếp những lõi lượng tử dao động dữ dội trong đường hầm nối kết những vùng không gian và thời gian khác nhau. Ra khỏi đó, Voyager lại tự tái tạo dựa trên một mẩu thông tin nén chặt của nhóm hạt gốc li ti, lại trở về vẹn nguyên là chính nó, rồi hướng về “nhà”, một hạt bụi lửng lơ trong một tia nắng.

Lúc Tom mở mắt ra, tất cả mọi người nhìn thấy trong đôi mắt già dặn của Thiếu tá nhen nhóm những đốm lân tinh dí dỏm.

“Các cô cậu, tôi nghĩ chúng ta sắp có bạn… Mất công mất sức như vậy chỉ để gửi thêm một đoạn âm thanh kỳ lạ về cho chúng ta chứ không phải là một hạm đội quái vật không gian, thì hẳn là không muốn thôn tính Trái đất đâu…”

“À thì họ đã có lòng gửi Voyager Một về nhà, ta cũng không nên để họ cô đơn mãi được…”

“Nausicaa.” Wanja đáp lời, “Cháu đặt tên đoạn ghi âm ấy là Nausicaa. Như trong bộ phim của Hayao Miyazaki. Và cũng biết rằng lúc đoạn ấy được thêm vào khoảng năm 2030 ở đây, cũng trùng hợp với nhật trình mà Peter đã tìm thấy…”

“Ừm. Ta sẽ không để Nausicaa cô đơn mãi. Bọn mình sẽ cố gắng giải thông điệp họ đã gửi về, và tìm thấy họ.”

“Kỳ lạ một nỗi là đoạn âm thanh ấy cứ như là một loại âm nhạc nào đó, phải không Wanja?” Peter hỏi dò.

Lucy cười dí dỏm, giả bộ vuốt một bộ râu bạc tưởng tượng “Ôi, âm nhạc. Điều nhiệm màu nhất ta có thể tìm thấy nơi đây.”

 

Tiếng chuông ở thung lũng gió

những ngày nhiều ánh sáng, 2050

Khi Cơ quan tổ chức họp báo vào tháng Giêng năm sau, có cảm giác như một trận bão lớn đang quét qua Trái đất. Tất cả các phóng viên tham dự đều thảng thốt. Còn hơn cả lúc vừa phát hiện tín hiệu của Voyager Một, những cơn sóng thông tin mãnh liệt vỗ vào mọi bến bờ ở hầu như tất cả các quốc gia. Kẻ hy vọng lại càng thêm nuôi những hy vọng hoang đường, như tàu Enterprise hay các hiệp sĩ Jedi cầm gươm ánh sáng sắp sửa xuất hiện từ trên trời cao. Kẻ hoài nghi tiếp tục chìm sâu trong nỗi ngờ vực rằng Trái đất sắp sửa bị người ngoài hành tinh xâm chiếm. Trong vài tháng, các nhóm phòng vệ ngày tận thế bỗng dưng sinh sôi như virus. Còn giới truyền thông chưa bao giờ ưa chuộng ngành khoa học vũ trụ và vật lý lý thuyết đến vậy kể từ thời Apollo lên Mặt trăng. Tất cả mọi thông cáo của Cơ quan đều dễ dàng lên tin nóng trong ngày, với rất nhiều bài diễn giải theo sau để phổ cập kiến thức du hành qua không -thời gian đến công chúng phổ thông nhất.

Còn ở Trung tâm, ảnh hưởng xảy đến theo một kiểu khác, không ồn ào như ngoài kia. Thoạt nhìn mọi thứ cơ hồ vẫn diễn ra như thường lệ. Nhưng ai cũng hiểu rõ rằng khối lượng công việc của nhóm Voyager bây giờ còn nhiều hơn lúc trước. Những kiến thức thu hái được từ phi thuyền đều được đào sâu trong hàng loạt các phòng thí nghiệm, được chia sẻ với các cơ quan vũ trụ trên khắp Địa cầu. Các nhà nghiên cứu từ khắp nơi trên thế giới đăng ký đến Trung tâm để tham quan và tìm hiểu với số lượng gấp ba, bốn lần bình thường. Các mẫu thử, bản phân tích và lý thuyết tạo dựng lớp vật liệu lượng tử trên Voyager trở thành đối tượng nghiên cứu ứng dụng nổi tiếng nhất trong năm đó và có thể là nhiều năm tiếp theo. Nhóm được mời lên truyền hình liên tục để nói về những điều họ phát hiện, và trăm lần như một, đài nào cũng hỏi, “Các bạn có chắc chắn họ không xâm lược chúng ta không?”

“Chúng tôi gọi nơi ấy là Nausicaa. Và, đúng rồi, nếu người ta đã tốn bao nhiêu công sức để chữa lành cho một phi thuyền xa lạ, gửi nó về nhà an toàn bằng công nghệ tối tân chứ không phải cử một hạm đội Stormtrooper, thì tôi nghĩ họ chẳng có ác ý gì đâu.”

Trịnh hay thoáng nhìn thấy tất cả những đoạn phỏng vấn ấy trên tivi trong sảnh sinh hoạt chung của khoa ở trường đại học, nơi anh trở về để triển khai đề tài tiến sĩ của mình và dành nhiều thời gian trò chuyện với các thầy cô, những giáo sư uyên bác đã dành hầu như trọn đời để đi tìm cho mình dấu tích của điểm kỳ dị và chiếc cầu Einstein - Rosen. Trịnh gửi cho các thầy cô tất cả thông tin mình có được từ Trung tâm, ngồi cùng họ bên những chồng tư liệu dày và trà nóng luôn được pha mới mỗi đầu buổi, rồi phát hiện ra mình có thêm một niềm vui nữa: ấy là chứng kiến những mái đầu lấm tấm bạc hết gật gù lại đung đưa, những chuỗi tư duy uyên thâm cứ qua mỗi ngày đều chạm đến một chiều sâu mới về một giả thuyết chung cho sự du hành qua lỗ sâu , với một nguồn năng lượng tràn dâng, tươi mới, vượt xa khỏi vướng bận tuổi tác hay giới hạn không gian.

Các thầy các cô hỏi Trịnh liệu có thể lấy được dữ liệu quan sát vùng rìa hệ mặt trời trong thời gian Voyager mất tín hiệu hay không? Nếu lỗ sâu xuất hiện, dẫu chỉ trong một phần vạn của giây, thì ắt hẳn phải có gì đó làm tin. Một sóng trọng lực nhỏ chẳng hạn. Tất nhiên sẽ vô cùng yếu ớt và dễ nhầm lẫn với một dao động nào đó của các tiểu hành tinh, song chắc chắn là phải có.

“Dựa trên đó, các thầy cô sẽ có thể cùng con hoàn thiện phương trình mà Einstein đã mở ra hơn hai trăm năm trước.”

-

Cùng trong chuỗi tương tác ấy, JW Kim bỗng có ý tưởng, hay là cứ hỏi tất cả mọi người rằng có ai nghe ra từ trong đoạn ghi âm của Nausicaa có gì lạ, hay có cách giải mã nào hay hơn các chuyên gia của Cơ quan hay không?

Khi anh nói “tất cả mọi người”, anh thực sự cho rằng như thế, là tất cả các mạng xã hội lớn bé, các hãng thu âm, các cộng đồng ca sĩ nhạc sĩ, các nhà sản xuất, các hãng đĩa, các khán giả hay vẽ ra những điều viển vông nhất từ một câu hát vu vơ.

Ngày 22 tháng Bảy, một bài viết xuất hiện trên những mạng xã hội đông người dùng nhất:

“Xin chào, JW Kim của nhóm Voyager đây. Chúng tôi đã đi gần một vòng quanh mặt trời mà chưa hiểu đoạn ghi âm mà phi thuyền đưa về là gì. Nếu bạn có bất cứ manh mối nào xin vui lòng gửi lại. Ngoài phần thưởng của NASA, tôi còn có thể dẫn bạn đến làm quen tất cả mọi người trong nhóm, miễn là bạn không thất vọng vì chúng tôi trông cũng bình thường, không ngầu như bạn tưởng. Và chúng tôi sẽ cảm ơn bạn bằng tất cả tâm tư.”

Trong một tuần đầu tiên, tin nhắn của Wanja lan truyền chóng mặt, nhận được cả trăm ngàn phản ứng, hồi đáp và chuyển tiếp trên mạng toàn cầu. Các nhân viên ở Trung tâm thường thấy anh ngồi lại rất muộn mỗi ngày, cố đọc qua bằng hết các hồi âm. Phần lớn là động viên, một số không ít là những thuyết âm mưu hài hước nhất. Nhưng không có một dấu vết nào khả dĩ đáng để anh theo đuổi. Có phải anh đã sai khi cho rằng đâu đó trong đoạn ghi âm từ Nausicaa là một thanh âm mà đâu đó trên Địa cầu này đã có người nghe qua hay không? Nếu đó hoàn toàn là những âm thanh hoàn toàn mới, thì qua những lao xao gió thổi và đing đang chuông ngân, Nausicaa muốn nói gì?

Tháng Tám, thông điệp của Wanja lắng xuống, phản ứng trên mạng cũng ít dần qua mỗi tuần. Tháng Chín, anh thôi kiểm tra hòm thư thường xuyên, cho đến chiều ngày 24, hòm thư của anh báo có tin nhắn mới, lại đánh đấu “quan trọng”.


“Gửi anh JW Kim,

Tôi là Apple, nhân viên phòng tư liệu của hãng thu âm Warner Music. Tôi đã nghe đi nghe lại đoạn ghi âm, và dường như có một chuỗi các hợp âm mà tôi cảm thấy có phần quen thuộc… Tôi cũng không chắc lắm, nhưng mong các anh tìm hiểu thêm về bản thu âm bài Fix You của ban nhạc Coldplay, từng phát hành nhạc với hãng chúng tôi và rất nổi tiếng hồi đầu thế kỷ này. Tôi xin gửi bản nhạc ở đây và xin chúc may mắn.”

Năm ngày sau, với hơn một trăm lần nghe Fix You đã trôi qua, Wanja viết lại:

“Cảm ơn Apple rất nhiều. Hôm nhận được thư của bạn, tôi đã luôn tự hỏi vì sao đến hôm nay mới tìm thấy Fix You vì bản nhạc tuyệt đẹp. Tôi đã nghe rất kỹ bản nhạc và cũng đã nhờ các kỹ sư âm thanh của chương trình Voyager chạy thử các bản phân tích. Nhất trí với bạn một điều: hiện tại chưa có gì chắc chắn cả. Phần âm thanh tựa như tiếng chuông từ Nausicaa không nằm trong đĩa đơn này của Coldplay. Tuy nhiên nhóm chúng tôi nhận thấy một điều, những tiếng chuông tựa hồ được sắp xếp theo một vòng hòa âm có tính tương hợp khá cao với đoạn điệp khúc của bản nhạc.

Ý nghĩ có ai đó ở ngoài chúng ta nghe được âm nhạc đến từ Trái đất chừng như rất khó tin. Dẫu vậy, bản thân sự trở về của Voyager Một đã khiến cho lòng tin của chúng tôi mở rộng vượt xa giới hạn của sự hoang đường. Trong vũ trụ này, bất cứ điều gì đều là khả dĩ.

Nếu bạn có thêm phát hiện mới, hãy gửi đến. Nhóm chúng tôi hy vọng vào tin tốt lành.”

Thêm hai tuần nữa, hòm thư của JW mới báo thư có thêm một hồi âm của Apple. Anh nhìn màn hình máy tính chăm chú, hít thật sâu, bỗng cảm giác điều mà anh chờ đợi bấy lâu, sắp đến.

“Anh JW,

Điều anh nói làm tôi nghĩ đến một ý tưởng… Áng chừng hơi điên, nhưng thôi kệ.

Tôi đã hỏi tất cả mọi người tôi biết trong ngành về mọi bản remix của Fix You kể từ 2001 đến nay. Khoảng hơn 100 bài có sử dụng âm giả lập tiếng chuông gió. Toàn bộ đã được đăng lên một thư viện chung và anh có thể truy cập ở liên kết trong thư này.

Chúc mọi người an lành và may mắn.”

-

Trịnh luôn từ chối nhận mình là một người uyên thâm thú vị.

Có những lúc không phải chú tâm vào điều gì, như lúc vừa thức giấc và cơn buồn ngủ còn chưa rút đi, Trịnh nghĩ trừ các nghiên cứu ra, quả tình anh là một người giản đơn đến nhàm chán. Có rất nhiều nhà vật lý kiệt xuất trên thế giới và anh cũng không dám tự nhận mình hơn ai. Anh cũng càng không ưa nhìn, lịch lãm, dày dạn hay có đủ của cải để mua những niềm vui phong phú.

Điều anh nghĩ còn giữ mình lại ở đây, đi về giữa các trung tâm nghiên cứu và các đài quan sát, ấy là bởi lẽ anh còn muốn chạm tay vào một viễn ảnh, hỏi vì sao cậu cứ ở đó, trong những cơn mơ, hay những khi tôi lơ đãng giữa ánh sáng ban ngày?

Ở viễn ảnh ấy, thoạt tiên mọi thứ đều tối đen và tuyệt đối lạnh lẽo.

Trong miền tăm tối rộng lớn vô cùng ấy, thi thoảng Trịnh sẽ cảm thấy có một hình hài thân quen ẩn hiện. Cứ như một người bạn cũ đã nói lời từ biệt từ ngày anh chưa mở mắt, chu du đến một nơi xa đến nao núng cõi lòng, rồi bất giác, khi anh không hề để ý, đã níu lấy anh như muốn nói: hãy đợi mình về.

Trịnh luôn muốn hỏi, vì sao cậu lại tìm đến tôi.

Nhưng chưa bao giờ có một lời giải đáp. Chỉ là, đợi mình về nhà nhé.

Hay ngẫu nhiên, cậu ấy không phải lửng lơ trôi trong bóng đêm cùng tận, mà đang ở nơi nào đó phủ vây trong những cơn gió xoắn nhau không dứt.

Nơi ấy, bầu trời có màu xám bạc chứ không xanh như ở nhà. Từ tầm mắt nhìn ra, đâu đâu cũng khô rang màu cam đỏ. Xa xôi kia, những hình thù sồ sề in lên thiên cầu, nom như những ngọn núi. Còn nơi đây tựa hồ như ở giữa một thung lũng không biết dài rộng bao nhiêu, mà gió lùa xuống rì rầm mãi không ngừng nghỉ.

Bỗng dưng Trịnh nhớ nhà.

Mà nhà là ở nơi đâu? Vẫn còn hay đã mất hút trong bụi mờ? Ta ở đây đã lâu quá, không còn nhận rõ được điều gì rõ rệt. Kẻ đi hoang dẫu có đủ mọi tiện nghi tốt nhất thế gian, dẫu đã ghé thăm bao nhiêu miền xa lạ, mà đến lúc mỏi gối chồn chân, khi dừng lại thì chừng như đã đi xa đến mức chuyện trở về là một điều quá đỗi khó khăn.

Nhưng ta có thể chữa lành cho cậu, một kẻ đi lạc khác. Tội chưa kìa, vừa đi qua cánh cổng đã vỡ nát thành trăm mảnh. À phải, đây rồi, những bức ảnh. Ta đã thấy “nhà” của cậu, nằm ở một hệ có chín tinh cầu quay quanh một ngôi sao ấm, ở gần hai viên ngọc xoay nhanh như bông vụ, cách thung lũng này một chiếc cầu chênh chao. Ở nơi ấy có cảnh quan rực rỡ, và các sinh mệnh trìu mến nhìn nhau.

Bên kia chiếc cầu ấy, nơi nhà của cậu, có phải cũng đã gửi âm thanh này đến đây không? Chuỗi ting tang ting tang cùng giọng ngâm nga chân thành ấy đã phải đi bao xa mới đến được nơi ta nương náu? Mà đến đây đã không còn trọn vẹn. Dẫu vậy, lại hợp với gió thổi miên man ở nơi này đến mức ta cứ muốn giữ mãi cho riêng mình. Nhìn xem, ta còn rèn những chiếc ống, treo đầu ngọn gió cho ting tang cùng nhau, để nơi trú ngụ bớt buồn đi một chút.

Ôi bé con, cậu mang gì rực sáng theo mình đấy? Các cậu gọi đó là gì nhỉ? Những rung động truyền đi trong khí quyển, chạm đến cõi lòng, nhen nhóm trong đó những ảo ảnh xa xôi. Có dòng chảy nào lung linh trong trẻo, có tiếng thì thầm nào đau xót mênh mang, có nhịp thắt lại, có nhịp dịu dàng. Có  rất nhiều đoạn ngắn vui tai, áng chừng là cùng một thông điệp.

Ta nghĩ là một lời chào.

Ừ thì chào nhé, để ta chữa lành cho cậu bằng tất cả những gì mà ta có. Cậu sẽ có thể đi được nhanh hơn và an toàn hơn qua chiếc cầu hiểm nguy ấy, để một lần nữa được trở về nhà.

Và cậu nhỏ, hẳn là hơi đường đột, song những âm thanh đẹp đẽ ấy có thể nào gửi thêm đến xứ sở cô đơn này hay không?

Bởi cậu nghe xem, ting tang ting tang, thật khuây khỏa biết bao.

 

Và, những điều gửi lại

ngày từ biệt, 2056

Đầu tháng Mười, giữa những cơn mưa tuôn tràn trong vịnh biển, Trịnh nhận được thư từ Thiếu tá: Chú muốn cả nhóm cùng gặp vào đầu tuần sau.

“Và chú báo trước, gặp xong rồi thì đừng xúc động quá đấy.”

Đầu tuần sau, Trịnh bước vào Trung tâm thật sớm, trên tay cầm ổ cứng ghi lại công trình mà các thầy cô của anh vừa cùng nhau giải xong.

Về một lỗ sâu cứ ngẫu nhiên trong vài mươi năm theo thời gian Trái đất lại mở ra một lần. Một vết cắt mỏng tang qua không gian thời gian, neo mình ở thật xa khỏi đám mây Oort, khuất sau những mầm sao chổi lững thững trôi.

Duy còn một việc, rằng dù có tính đoán được phương hướng, nhưng lại không tính được thời gian. Ở đầu bên kia, tính toán cách mấy cũng không tài nào biết là cách bao nhiêu năm ánh sáng.

Lúc Trịnh chuẩn bị mở cửa phòng họp chính của cả nhóm, anh chợt dừng lại.

Hành lang nơi anh đứng dường như hơi khác. Như bóng đêm kéo đến và dịu dàng lan ra, như có tiếng gió cựa mình len lỏi qua một âm quyển riêng tư, thổi những chiếc chuông được treo bên dòng ánh sáng. Anh hít sâu, mở cửa, theo những tiếng chuông mà bước vào.

Cả nhóm đều ở đó, quay quần bên nhau trong một bầu không gian êm ái đến độ anh thấy như một thứ bùa mê.

Những âm thanh nghe như chuông gió rơi bồng bềnh xung quanh, bao phủ xung quanh, là Chris Martin chân thành hát, “Những ánh đèn sẽ đưa lối dẫn cậu về nhà, thắp sáng cậu từ tận xương tủy.”

Khi Trịnh thấy mình bước vào một thung lũng rì rào cát bụi, dưới bầu trời bạc và trong tuyệt đối lặng im, nước mắt anh lăn từng giọt xuống bai bên khuôn mặt.

“Và mình sẽ cố gắng chữa lành cho cậu.”

Lucy là người lên tiếng trước hết, bằng một tiếng thở dài mãn nguyện. Thiếu tá theo sau, bằng tràng cười khanh khách mà nghe nghẹn lại đâu đó. Eno không cười, cũng không nói, chỉ đi qua đi lại mãi không yên. JW Kim thì bước lại máy tính, để trước khi mở lại bản nhạc một lần nữa, anh nói.

“Bản remix mà một nhạc sĩ gọi là Four Tet đã thực hiện cho Coldplay năm 2005, được phát sóng radio mười năm sau đó, và chưa từng chính thức được phát hành.”

“Và nếu tôi không cộng trừ sai, thì từ 2015 đến 2030 là bao lâu nhỉ Peter? Xứ sở ấy, Nausicaa, có lẽ cách chúng ta vừa tròn mười lăm năm ánh sáng.”

-

Những năm sau đó, Thiếu tá hiểu, mọi việc đều là bởi cơ duyên.

Câu chuyện âm nhạc dẫn lối những vòng quanh mặt trời qua đi xuyên qua thời gian, được viết lên trong những ngày nhiều ánh sáng, bằng chuyên chú và chân thành, với nốt nhạc đẹp nhất là âm thanh của một tiếng chuông rung giữa xứ sở trời bạc gió ngàn.

Và vì họ đã cùng nhau đi hết một quãng đường, tuy không dài như mười lăm năm ánh sáng, nhưng cũng đủ để sau này còn kể lại hoài cho những người bước theo.

Rồi cả việc họ đã đứng cùng nhau trước hàng trăm cặp mắt đổ dồn, những máy ảnh và máy quay giăng kín, và dòng tin tức như sóng lớn tràn bờ bãi.

“Chúng tôi đã tìm thấy Nausicaa.” Thomas Jones hít sâu, bắt đầu nói.

“Cách chúng ta mười lăm năm ánh sáng, bên kia một chiếc cầu Einstein – Rosen. Một nơi chưa bao giờ được chú ý, không thích hợp cho chúng ta sống vì khí quyển quá dày và gió nơi ấy có thể thổi kẻ can trường nhất trong chúng ta thành cát. Nhưng có lẽ lại thích hợp với những cá thể khác… Sau nhiều suy luận thấu đáo, chúng tôi tin rằng họ thông minh và  rất giỏi giang, đồng thời cũng tử tế không kém loài người. Và bởi vì họ đã đủ ân cần để gửi Voyager Một trở về nhà, chúng tôi nghĩ mình sẽ không bỏ mặc Nausicaa ở bên kia bóng tối. Họ đã chỉ đường cho ta đi đến, và chúng tôi sẽ gửi thêm những gì chắc hẳn họ cũng đang chờ mong.”

Lần này, ta sẽ gửi gì đi?

Tất cả những gì đã khiến quê nhà chúng ta, dẫu qua bao đau thương vẫn đẹp đẽ vô ngần.

Và dẫu có mất thêm năm mươi vòng quanh mặt trời nữa, ta sẽ cùng nhau chờ đợi lời chào kế tiếp.

-

Một ngày trời rất trong của tháng Sáu năm 2056, cả nhóm cùng ra ban công của Trung tâm để nhìn về phía mũi đất hướng ra biển, Voyager Ba và Bốn sắp sửa khởi hành cùng nhau trên một chiếc lên lửa to lớn màu trắng. Tên lửa vẽ một đường cung rực cháy trên nền trời trước khi tan vào nền trời xanh thẳm. Lần lượt, hai phi thuyền sẽ được thả theo ở quỹ đạo cao của Trái đất, được bao phủ bằng một lớp vật liệu lượng tử để giúp cả hai có thể đi qua lỗ sâu một cách an toàn hơn lúc trước.

Lucy quay sang hỏi Wanja, “Chúng ta đã gửi bao nhiêu bản nhạc, bao nhiêu quyển sách và bao nhiêu bức ảnh đi thế?”

“…Năm trăm, bảy trăm, một ngàn hai? Sao bỗng dưng trí nhớ của mình có vấn đề nhỉ?”

Lucy cười, đôi mắt nheo lại, êm dịu như chính hôm nay.

Còn Trịnh, sau bao nhiêu ting tang đing đang, lần đầu tiên cảm thấy mình đã đưa bàn tay nắm lấy cậu ấy. Một người bạn đi lạc khỏi nhà mình, nương náu ở xa xôi tít tắp, ngày qua ngày treo những chiếc chuông cho gió thổi làm tin.

Hết