Kỳ ảo, kinh dị | MA (dành cho bạn đọc trên 18 tuổi)

Cảnh báo: Truyện có yếu tố kinh dị. Quan điểm của nhân vật không phải là quan điểm của tác giả.

Ngày xửa ngày xưa, một con quỷ và một con buôn gặp nhau và giao kèo lật đổ bầu trời.



 

Ở nơi cuối đất cùng trời, có chúa quỷ Azariell bỗng dưng sa cơ lỡ vận.

Chuyện không có gì to tát. Sinh ra làm quỷ thì làm sao mà chiến thắng thánh thần? Azariell hiểu chứ, hiểu hơn bất cứ ai. Cho nên, trong khoảnh khắc trông thấy tất cả những vị thần lăm lăm cung thần gươm quý, con quỷ biết rõ là hắn thua rồi. Thua trắng, thua đến mức không còn gì mà ấm ức. Hắn bèn cười khẩy, nhắm mắt buông tay, để cho mình rớt từ vạn tầng mây xuống, nhìn từ xa nhỏ xíu như một mảnh vỡ của sao chổi lỡ đi lạc vào trái đất. Hắn mở rộng thân thể cho không khí cứa qua, đốt cháy từ mái tóc đỏ au đến trái tim đen đúa. Máu túa lên trời, nước mắt nuốt ngược vào trong. Hắn đưa ngực, bụng hứng lấy triệu mũi tên sấm sét, ôm thân tàn lê lết vào sa mạc.

Hắn đi mải miết rồi gục xuống dưới trăng xanh. Trên cao, đám thần thánh thấy cuộc chơi đã qua hồi hưng phấn, dần dà tản đi cả. Ai đời lại đi đánh một kẻ không còn sức kháng cự nữa? Điều ấy không những vô vị, lại chẳng mang về tí vinh quang nào. Một chốc sau, chỉ còn Azariell thui thủi nằm đó, bình tĩnh nghe da thịt rách khỏi xương và cái buốt giá của sa mạc ban đêm tràn vào tuỷ. Lạnh quá, lạnh như cái chết. Con quỷ chắc mẩm vài khắc nữa thôi cổng địa ngục sẽ mở, hắn sẽ trôi tuột vào trong đấy và như thế, kiếp này của hắn sẽ kết thúc.

Nhưng mà làm quỷ thì tính toán sao bằng các thánh thần, hở Araziell? Ban nãy, trong cơn rạo rực khôn nguôi, chẳng rõ vị thần nào tiện tay đã ném vào hắn một lời nguyền rủa. Con quỷ giờ đây bị đuổi khỏi ba cõi trên trời, dưới đất và bên kia, nhưng vĩnh viễn không được siêu sinh. Địa ngục nào dám chứa chấp hắn đâu?

Cho nên hắn sẽ phải nằm ngay đây, thoi thóp và khổ sở mãi mãi. Lời nguyền quái đản nhưng quyền năng ấy sẽ giữ hắn không tan biến, cũng không hẳn chết đi. Hắn sẽ thành một thứ vất vưởng cho đến khi nào các thánh thần lụn bại. Mà chuyện đấy thì làm sao xảy ra đây hở Azariell?

Sa mạc chậm rãi rút máu ra khỏi cơ thể con quỷ, máu ngấm qua nhiều lớp cát mà chạm đến trầm tích dưới sâu. Gió bụi và thời gian vùi lấp người hắn. Giờ đây, hắn còn xương mà không thể cử động, còn miệng mà không thể gào thét, chỉ còn con mắt trợn trừng, cố nhìn qua những tầng cát đã đổ dày thành bóng tối, về phía bầu trời.

Rồi dần dà, khi thậm chí không thợ kể nào còn nhớ đến câu chuyện về một con quỷ bại trận nữa, vùng cát nơi hắn từng gục xuống bỗng có nước từ lòng đất phun lên. Nước tràn trề, mát rượi, đổ đầy thành một chiếc hố sáng như gương, soi thấy cả một góc trời.

--

Qua trăm năm hạn nhiều mà hố nước ấy chưa bao giờ vơi. Chim chóc kéo về uống nước rồi thải hạt của những loài cây trái chúng mang theo từ viễn xứ. Lại hơn một thập kỷ trôi qua, giờ đây bên hố nước là một khu vườn xanh thẫm. Vườn đầy hoa dại và những loài cỏ thơm, cùng nhiều cây mơ nở hoa trắng chi chít cành. Trong đêm trăng soi, cả ốc đảo trông như một viên ngọc sáng ngần giữa bóng tối thinh thang của sa mạc.

Một ngày nọ, chẳng biết quỷ ma nào đưa lối mà đoàn buôn gấm vóc của Tahal, nhà buôn lớn nhất nhì thành Cát, chợt phát hiện ốc đảo trên đường chuyển hàng về thành, bèn dừng chân nghỉ ngơi. Thấy quả sắp chín trông ngon lạ vô cùng, họ bèn hái thử vài quả đem về, định dâng cho chủ nhân nếm thử. Vài ngày sau, Tahal ăn trưa xong, được người hầu dâng mơ lên thì choáng váng. Ôi chao! Mơ gì mà quả to gấp ba - bốn loại thường, tròn căng, vàng lựng như mặt trời xế bóng, thơm nức mũi, lại ngọt như một mối tình si.

Chừng như đánh hơi thấy điều gì quý giá, chuyến sau, đích thân Đức ông cưỡi lạc đà đi vào sa mạc, đi từ sáng đến chiều tà mới thấy khu vườn lấp ló hiện ra sau chân trời, từ một bóng dáng hư ảo dần rõ thành một kỳ quan tươi thắm. Tahal thận trọng bước nhẹ trong vườn, thấy thật lạ. Rõ ràng chỉ là một ốc đảo bình thường và hố nước phẳng lặng hơn những ao, hồ khác một chút mà thôi. Ấy vậy mà Tahal dường như nghe thấy những tiếng cười nhạo thổi vào tai mình như vọng về từ bên kia thế giới.

“Được lắm, để tao xem nơi này có bùa mê thuốc lú gì.”

Tahal đi buôn mấy chục năm dọc ngang dưới gầm trời, vào sinh ra tử, kiện tụng hầu toà không biết bao nhiêu mà kể. Chưa kể các đối thủ thuê thầy bà ếm bùa bỏ ngải, gọi hồn luyện quỷ, giở trò đâm lén. Nhưng chưa ai mảy may làm hại đến tính mạng Đức ông. Tahal tin rằng đến nước này, dù trời có sập thì ông ta vẫn sống nhăn răng, nên chỉ cười khinh khỉnh, bảo người hầu phát quang một bãi trống cạnh hố nước để dựng lều ngủ lại. Tahal đứng bên mép nước, nghe tiếng dao rựa đằng sau chém vào cây cối, chăm chú nhìn mặt nước hơi phồng lên rồi run khẽ theo từng nhát dao, khục khặc cười.

Đêm đấy, Tahal bảo tuỳ tùng canh giữ hố nước cẩn thận, có động tĩnh gì thì tức tốc lay ông ta dậy. Dặn dò là thế, nhưng chính Tahal ăn xong một quả mơ, vừa ngả đầu lên gối đã ngủ say. Giữa đêm, chẳng biết còn mê hay đã tỉnh, Tahal nghe gió thổi qua vòm lá rồi to dần thành những lời gọi tên mình. Tahal. Tahal. Vì sao mày còn dám sống?  Thằng người tham lam, tàn nhẫn, độc địa như loài rắn, gian manh như loài cáo. Vàng bạc mày có đổi bằng máu, dinh thự mày xây bằng xương. Mày không sợ hay sao mà dám đưa chân vào chốn nguyền rủa này?

“Sợ? Nguyền rủa” Tahal đứng dậy, bình tĩnh ra khỏi lều. Đêm phủ kín vườn. Chỉ có tiếng gió xào xạc mỗi lúc một to, loáng thoáng còn nghe cả tiếng chuông kêu leng keng thoắt ẩn thoắt hiện qua vòm lá. Nhưng mặc cho gió gầm gào, hố nước trước mặt Tahal vẫn phẳng lặng tuyệt đối, phản chiếu hết mọi vì sao đang hấp háy, như một con mắt trổ ra từ cõi khác mà chăm chăm tìm kiếm một câu trả lời nào đó trên trời.

Tahal khùng khục cười:

“Tao đã từng chứng kiến mọi sự xấu xa trên đời. Lũ thầy tu đòi cống nạp từ thiếu niên đến trinh nữ, gọi là học tập tế lễ thánh thần. Đám vua chúa nhân danh mở mang bờ cõi mà ép trai tráng đầu quân, rồi thản nhiên để chúng nó chết mất xác ngoài chiến trận. Bọn quan tham hễ gặp tí vàng đã sáng rỡ mắt lên. Tất cả chúng đều đã từng ngấp nghé vàng bạc của cải trong tay tao. Chúng cho rằng bởi tao không chịu cống thêm vàng bạc cho quốc khố nên quân đội thua phơi xương ngoài bãi. Chúng thỉnh bùa về đốt, rải nước bùa vào tường nhà tao cho ma cào quỷ cấu. Chúng đổ vấy cho tao chuyện cướp con gái nhà lành. Chúng cho tao là loài hút máu trẻ con mà phương phi béo tốt. Chúng giết con cái tao khi tóc tao còn chưa bạc sợi nào. Tao bị nguyền chưa đủ ư? Mày là quỷ quái phương nào mà dám cho rằng lời nguyền của mày mạnh hơn chúng nó?”

“Đến đây.”

Gió lạo xạo vào màng nhĩ rồi thúc vào vai Tahal, đẩy ông ta về phía trước rồi nhấc bổng ông ta quăng xuống hố. Trong một tích tắc Tahal hoảng sợ, định vùng vẫy ngoi lên, nhưng có thứ tà ác gì kéo ông càng lúc càng chìm xuống. Lớp nước lặng ngắt bên dưới sâu không tưởng nổi, lại tối om om. Nước xộc vào mũi miệng Tahal rồi đổ đầy vào trong bụng. Nước siết quanh cổ và bóp nghẹn hơi thở. Tahal mất hết sức lực, đành thả người chìm xuống.

Cho đến khi Tahal thấy người nhẹ hẫng thì ông ta mở mắt ra, hốt hoảng trước cảnh tượng mà mình nhìn thấy. Trước mắt là bầu trời tràn trề màu đỏ cam lộng lẫy. Sau những rặng mây là muôn ngàn thần thánh, quần áo đẹp đẽ, giáp trụ sáng choang, mũ miện khảm ngọc viền vàng. Họ hô lên to đến mức khiến bầu trời chừng như vỡ nát. Họ giương cung, bạt kiếm, lắp tên. Tiếng lanh lảnh của vũ khí cộng hưởng vào nhau như khúc hoan ca chiến thắng. Niềm hưng phấn vĩ đại và chính đáng đến mức khiến Tahal rùng mình sợ hãi.

Giờ đây Tahal, trong giấc chiêm bao, đang nhìn bằng con mắt của kẻ khác. Kẻ ấy đang thả mình rơi xuống, chấp nhận rằng chưa đánh đã thua. Máu túa lên trời, nước mắt rớt ngược vào trong, đọng lại thành nỗi uất nghẹn choán ngợp trong lòng. Bởi chỉ một chút xíu nữa thôi, chỉ cần cố vươn tay thêm một chút, có lẽ hắn đã chạm đến biên giới bầu trời, mà chỉ cần vượt qua đó là hắn đã chạy trốn vào không gian giữa các vì sao. Nhưng nào có được đâu? Bẫy đã sập, kèn hiệu đã rền vang. Đã là quỷ thì phải ở ngay đây, trong ba cõi, làm vai phản diện trong các huyền thoại truyền đời đời kiếp kiếp. Những gã thợ kể tin rằng những câu chuyện hấp dẫn nhất trên đời đều là những cuộc đấu tranh, mà mết quả luôn là có một bên chiến thắng và hưởng trọn vinh quang, bên còn lại thua trong đớn hèn tủi nhục. Nhưng hắn chán rồi. Hắn không muốn đóng vai trong câu chuyện định sẵn nào nữa. Hẳn chỉ muốn vĩnh viễn biến mất.

Tội lỗi này tày đình biết mấy! Rắp tâm này xảo trá biết mấy! Không có quỷ thì thánh thần làm sao có vinh quang? Thế nên hắn không xứng đáng được thứ tha, càng không có tư cách để chết. Chết là cơ hội để linh hồn hắn siêu sinh sang cõi khác, được hoá kiếp làm con dê con ngựa. Kẻ đào thoát không xứng đáng với bất cứ cái gì. Hắn sẽ phải ở ngay đây, giữa ba cõi, mà không cõi nào dung chứa. Có mắt nhưng không thể thấy, có miệng mà không thể gào.

Mắt Tahal mở trừng trừng. Triệu mũi tên sấm sét lao xuống, xuyên qua như thể ông ta chưa hề tồn tại. Nhưng Tahal hiểu, kẻ đã cho mình thấy cảnh tượng ấy đã hứng lấy sự tàn bạo hơn bất kỳ trận chiến nào, bị vùi dưới khoái cảm hành hạ thấm đẫm khí quyển, khiến Tahal rùng mình.

Chỗ con quỷ gục xuống, trăng xanh và cát đỏ rờn rợn phủ lên. Ánh trăng chảy ra nhễu nhão và cát cuồng loạn xoay vòng. Trăm năm trôi qua trong tích tắc. Máu của hắn lọc qua thời gian và nhiều lớp trầm tích, thành mạch nước nguồn từ dưới đất trào lên, thành hố nước hướng thẳng về phía bầu trời, như con mắt muốn xem thử trên cao xanh ấy, tất cả các thánh thần kia có đang thoả mãn hay chăng?

Tahal giật thót, mở mắt ra lần nữa, thấy mình đang nửa đứng nửa ngồi trong hố nước. Đám người hầu đang đốt đuốc sáng rực khu vườn, ánh đuốc phản chiếu trong nước lay động như ma trơi. Nghe tiếng gọi thất thanh của tuỳ tùng, Tahal mới hoàn hồn, trở lại là Đức ông thành Cát. Để người hầu dìu vào lều và thay quần áo sạch xong, Tahal chợt nghĩ như thể cảnh tượng vừa xảy ra chỉ là một cơn mê. Nhưng cơn rúng động sâu sắc trong lòng cứ khiến Tahal phải tin rằng mình không mơ. Đấy là một lời hiệu triệu. Một dạng tín hiệu mà khu vườn quỷ ám này cố gắn lên người Đức ông. Thứ tín hiệu ấy, khi trời chưa kịp sáng, đã bám rễ trong lòng Đức ông rồi tràn lan ra bệnh đậu mùa, khiến Tahal phát sốt, lẩy bẩy.

Đám tuỳ tùng tưởng chủ nhân phát sốt bởi trận mộng du rồi rơi xuống nước, bèn hết lời khuyên nhủ Tahal ngay lập tức nhổ trại về thành. Nhưng Tahal biết rõ, thứ cuồn cuộn nóng cháy mà ông ta đang cảm nhận khắp châu thân là gì. Thứ đó khoái trá hơn kiếm tiền, say sưa hơn rượu chè, ngọt ngào hơn tình ái.

Khát khao trả thù.

Thứ ham muốn tột bậc để huỷ hoại toàn bộ ba cõi, đánh tan mặt đất, thiêu trụi địa ngục, kéo sập trời cao.

Nếu đã không có tự do, thì chúng ta hãy giam cầm nhau hết thảy trong cái xứ khốn khổ khốn nạn này.

Đức ông quay về nhà, giam mình trong phòng ngủ trong dinh thự, suy ngẫm mấy ngày đêm. Đến mặt trời lặn hôm thứ năm, Tahal mới bước ra ngoài vườn, sai người lấy la bàn đến rồi xem hướng nhìn về hố nước. Ánh trời chiều nhuộm đỏ khuôn mặt có phần gầy gò hơn trước của nhà buôn thành Cát. Sắc đỏ như máu loãng ấy đổ đầy tròng mắt Đức ông, khiến đôi đồng tử co rút lại, rồi dần dà ướt mềm như có một niềm xúc động khôn xiết. Tahal thở dồn dập. Chao ôi! Khốn nạn thay! Đức ông đã quyết định chìa tay cho một giao kèo mà một khi bước vào không còn đường nào thoái lui được nữa. Thấp thoáng trong không khí có tiếng chuông reo, tiếng đàn và sáo lảnh lót, tích tắc sau lại tản đi, hầu như không ai nghe thấy ngoài chính người đàn ông đứng chơ vơ trước thềm. Tahal lấy lại hơi thở, lòng hết lo sợ, lại vui sướng khôn cùng.

“Được lắm. Mày muốn huỷ hoại thần thánh. Tao muốn cười nhạo loài người. Chúng ta giao dịch không, hỡi loài quỷ dữ?”

--

Mười ngày sau, Tahal mang mười giỏ mơ chín về thành Cát. Xe chưa qua cổng thành mà hương mơ thơm lừng lựng đã toả vào từng hẻm nhỏ. Người dân nghe hương phảng phất quanh mũi mà ngỡ rơi vào giấc mộng. Họ bước ra khỏi nhà bằng bước chân của kẻ say, đứng dọc theo phố chính mà ngóng theo chiếc xe thồ do lạc đà kéo vào thành. Những chiếc giỏ được phủ khăn đũi, một ngọn gió lùa qua làm một góc khăn hở ra, hé lộ những quả mơ khiến đám đông ồ lên thích thú. Chưa ai được chạm vào mà dân chúng đã kháo nhau rằng những quả mơ ấy trông ngọt ngào tươi mát quá, hẳn là căn một miếng là trong miệng sẽ tràn trề mùi hương diệu kỳ và vị ngon ngây ngất lòng người.

Đức ông cống bốn giỏ vào cung vua, ba giỏ cho các điện thờ thần bảo trợ xứ Cát, hai giỏ chia cho các quan lại quý tộc, còn một giỏ thì tuồn ra chợ đen, cho đám đầu lĩnh giang hồ treo giá cao cắt cổ mà bán cho đám thương buôn địa chủ. Nghe nói vua cùng các cung phi hưởng dụng xong thì vô cùng sảng khoái, sức lực căng tràn, làn da bóng mịn trẻ trung. Vương thượng quên hết mọi ưu phiền, thậm chí tin báo quân đội ngoài chiến địa sắp cạn kiệt lương thảo cũng không làm ngài giận dữ. Các điện thờ trút bớt vẻ thâm nghiêm, những tư tế nói nói, cười cười trong nghi lễ. Các quan trong triều được ăn mơ thì cư xử  hoà nhã, ai nấy mặt mũi rỡ ràng, đi đứng khoan thai như vừa được tẩy trần. Còn những nhà giàu trong thành nghe tiếng vua quan ăn được mơ thần cố công lùng sục, thậm chí một thỏi vàng một quả mơ cũng đổi. Ai đổi được rồi, ăn rồi thì đều gật gù đồng ý: Quả mơ ấy là cửa ngõ dẫn đến thiên đường.

Bảy ngày sau, quan Tổng đốc thành Cát hân hoan mời Tahal đến dùng bữa tối. Ăn uống no say xong, ông ta nhẹ nhàng xoa tay hỏi nhỏ: “Chẳng hay ông bạn tìm thấy loại quả ấy từ xứ nào mà diệu kỳ đến thế? Vương thượng sáng nay bứt rứt mãi. Ngài đã ăn quen mấy ngày qua, ăn thay cả bữa chính, đã gần hết giỏ cuối cùng rồi.”

Tahal ra chiều băn khoăn, đứng dậy đi lại vòng quanh, đưa tay ve vuốt mào con chim công làm cảnh trong vườn, chân nó đang bị xiềng vào một chiếc trụ đá cẩm thạch sáng choang. Thấy Tahal có vẻ chần chừ, quan Tổng đốc tiến tới gần, trổ hết tài ăn nói của lão ra mà thuyết phục Tahal:

“Ông bạn già của tôi ơi, giao tình giữa chúng ta ít nhiều cũng đã hơn thập kỷ. Tôi đang lo lắng cho ông lắm, bởi cáo trạng ông trốn thuế đã trình đến cung vua rồi. Vụ đấy không lớn, nhưng thuế má là đại sự quốc gia nên Vương thượng để ý cực kỳ. Ông nên tỏ lòng thành thì Vương thượng lúc cầm cân nảy mực mới xem xét nặng nhẹ cho phù hợp được.”

Tahal thở dài, “Bạn ơi, lẽ nào tôi đóng góp chừng đấy quân nhu, quân lương và tiền của cho cuộc viễn chinh mà vẫn chưa đủ lòng thành? Lẽ nào vì mấy quả lạ mà tôi mang thêm tai tiếng? Nhất là những quả ấy còn không phải từ vườn tược, đất đai của tôi. Tôi chỉ được báo mộng mà thôi…”

Mộng ư? Quan tổng đốc đánh hơi thấy chuyện này lớn lao hơn lão tưởng, bèn lân la hỏi thêm. Tahal ra chiều ậm ừ một lúc mới giở giọng bí hiểm:

“Đêm trước tôi nằm mộng, thấy một Vệ thần ngự trên tầng mây tía. Ngài uy nghi, nghiêm trang hơn bất kỳ Chúa tể nào chúng ta từng chiêm bái. Vệ thần nói ngài đến từ bên ngoài vũ trụ, tình cờ đi ngang qua xứ Cát. Ngài hài lòng bởi Vương thượng công minh, triều đình liêm chính, dân chúng giàu có và rất kính trọng thánh thần. Ngài chỉ chỗ cho tôi khu vườn thiêng nơi ngài tạm lưu lại trên cõi trần để thưởng cảnh. Nơi ấy ngài đã sai những loài linh thú trồng đầy hoa thơm cỏ lạ và những cây mơ ướp bụi của một vì sao… vì sao nơi ngài sinh sống. Tôi thức dậy thì nghe chim chóc hoan ca, nghe tiếng đàn tiếng chuông lảnh lót bên tai như đương trong tế lễ, bèn thấy lòng run rẩy. Tôi theo hướng đi ngài chỉ mà đi vào sa mạc, vừa đi vừa thành tâm khẩn cầu rằng chuyện này có thực. Đường không xa mấy, nhưng dường như ngài đã phù phép để chỉ có tôi nhìn thấy khu vườn thánh. Trong vườn, hoa gặp tôi thì cúi chào, cây cỏ thấy tôi đến thì mở lối, và những cây mơ sum suê tươi tốt chìa cành xuống đưa những quả mọng cho tôi hái. Tôi nghe bên tai tiếng Vệ thần dặn dò rằng hãy san sẻ cho những người khiến xứ Cát của chúng ta vĩ đại, để các bề tôi của ngài cùng tận hưởng phúc lành. Tôi cũng trộm ăn một quả… Bạn tôi ơi, có đúng là ăn xong thì thấy mình chạm ngõ thiên đàng?”

“Đúng, đúng thế! Ăn một quả linh hồn bay bổng, ăn ba quả hồn đến cổng trời. Tahal này, khu vườn mơ ông kể có còn quả nữa không? Vườn ở đâu? Ông dẫn tôi đi có được không?”

Tahal nhìn vẻ mặt tham lam của lão tổng đốc, ra vẻ buồn rười rượi mà lắc đầu: “Vệ thần đã dặn dò rằng ngài ưa yên tĩnh, tôi chỉ cần hằng tháng đến vườn mà mang quả về mà thôi. Tuyệt đối đừng cho ai hay vườn ở đâu. Vệ thần nổi giận nếu chúng ta bất kính thì tôi e rằng tai hoạ khôn lường. Sức mạnh của ngài không nằm trong phép đo lường của chúng ta đâu!”

Nói đoạn, Tahal xin lui, chào quan Tổng đốc rồi ra về, mang theo một nụ cười giễu nhại thật nhỏ trên môi.

--

Cùng ngày ấy, tháng sau, lúc tờ mờ sáng, những người lính canh cổng thành nghe tiếng tru tréo đập cửa đòi vào thành. Một tốp lính canh vội vàng đốt đuốc, mở cổng phụ, thận trọng ra ngoài thì thấy đó là những người hầu của dinh Tổng đốc đang gào thét la liệt. Đám ngựa thồ với lạc đà vừa về tới ngoài tường thành thì lăn đùng ra, sùi bọt mép. Những người hầu gục xuống, vừa khóc lóc vừa hào hển thở dốc. Họ gùi trên lưng mấy chiếc giỏ phủ vải lanh đỏ bầm màu máu. Toán lính canh run rẩy tiến đến, mở thử một góc vải lanh rồi thét lên một tiếng gào khủng khiếp.

Trong chiếc giỏ ấy là cái đầu của quan Tổng đốc, đã bị một loài thú hung tàn gặm hơn một nửa, còn một bên mắt mở trừng trừng như đã chứng kiến thứ báng bổ nhất, khủng khiếp nhất thế gian.

Có đến hơn nửa tá nhửng chiếc giỏ phủ vải đỏ lòm lòm đang đè nặng trên lưng những người hầu, khiến họ ngã quỵ xuống. Thứ ở trong giỏ lăn lốc ra ngoài, vừa kịp bắt lấy tia nắng đầu tiên của ngày mới.

Ở ngoài sa mạc, trong khu vườn bên cạnh hố nước lặng ngắt như tờ, Tahal đang ngồi bên chiếc bàn đá con con mà ông vừa kịp sai người mang đến ban chiều. Đức ông vừa uống rượu vừa mỉm cười, nụ cười rạng rỡ vô vàn trong ánh nắng đầu tiên lúc ngày sang. Nắng soi vào chén, ánh lên sắc rượu đỏ hồng sóng sánh.

Dường như sự kinh dị hồi đầu đêm không làm Tahal sợ hãy mảy may. Dù vậy, Đức ông nghĩ mình sẽ ghi nhớ cảnh tượng ngoạn mục ấy cả đời. Từ hố nước, một cái bóng đen đầy răng nhọn dâng lên, nở phồng ra thành một con quái vật, rồi bổ nhào xuống ngoạm vào đầu kẻ tham lam bám theo Tahal đến ốc đảo. Nỗi sợ hãi tột độ trong mắt của lão, cái miệng chưa kịp gào thét của lão… Sức mạnh và sự tàn nhẫn ấy khiến Đức ông tấm tắc không thôi. Tahal đã nghĩ mình đủ tàn nhẫn. Nhưng rốt cuộc ông ta vẫn là người trần mắt thịt, làm sao bì kịp với sự tàn bạo của loài quỷ thống trị một chiều không gian khác?

Lúc hừng đông, con quỷ đã trở về dưới hố nước, chỉ để lại cái miệng đầy răng nanh lấm máu trên mặt nước và tiếng khè khè còn lẩn quẩn bên tai Tahal. Ông ta mỉm cười, hỏi:

“Ngài là quỷ phương nào, sao ta chưa nghe bao giờ?”

Con quỷ thở khè khè, nhe nanh, nửa cười nửa bặm trợn. Tahal nhún vai:

“Ngài không cho ta biết, không sao cả. Ngài chỉ cần tôn trọng giao kèo giữa chúng ta. Ta buôn châu báu, tơ tằm, vàng bạc đã nhiều. Giờ buôn thần bán thánh âu cũng là lẽ phải. Ngài đã thấy chúng ăn phải bùa mê của ngài mà phát nghiện, sắp sửa tôn ngài thành thần dẫn lối đến thiên đàng chưa? Kể cả Vương thượng ở ngai cao hay Đại tư tế trong điện lớn. Rồi đây ngài sẽ thay chỗ tất cả các thần thánh khác trên bệ thờ và trong những lời cầu nguyện. Ngài sẽ đủ quyền năng để một lần nữa thách đấu với bầu trời.”

Tahal vừa nhấm ráp chén rượu vừa nói tiếp:

“Ngài chỉ cần khiến chúng làm trò tiêu khiển cho ta thôi. Cuộc đời của ta mấy khi vui vẻ thế này đâu…”

Tahal cười khanh khách, rồi lải nhải thêm mấy câu. Con quỷ không nghe, vùi hẳn xuống nước. Hố nước lay động thoáng chốc rồi im bặt, lại phẳng lặng như chưa hề có thứ gì đã sục sôi bên trong nó. Giờ đây, mặt nươc lại sáng trong, như đồng tử nhìn thẳng về phía trời cao.

--

Tất cả tuỳ tùng đều bị xoá sạch ký ức về cái đêm kinh hoàng ấy. Ai cũng trở nên lơ ngơ, điên khùng. Không có nhân chứng vật chứng, cái chết của Quan tổng đốc xô những đợt sóng tin đồn dồn dập vào thành Cát. Có người bảo lão ta đi tìm nhân tình trẻ ở những thành trấn khác, xong việc trở về bị linh cẩu rình rập tấn công. Có người bảo lão ta chắc đã phạm huý đám giang hồ tứ chiến, bị chúng nó bắt cóc, tra tấn rồi thủ tiêu. Cơ sự nghiêm trọng đến mức Vương thượng phải ra chiếu chỉ trấn an dân chúng. Người dân nghe xong, phần nhiều lầm lũi bỏ đi, nhưng vẫn có những tiếng cười khinh khỉnh.

Chết đáng lắm! Lão nắm quyền hành bao năm, dưới chân lão đã biết bao nhiêu người tù đày mọt gông, bao nhiêu hộ buôn bán nhỏ đã phá sản vì không thể chung chi rồi.

Ngày đám ma lão Tổng đốc, Tahal mang tiếp mười giỏ mơ về kinh, lại chia phần chu đáo rổi chuyển đi các nơi. Vương thượng thấy mơ dâng lên thì mỉm cười sau bao ngày mỏi mệt trước những tin đồn râm ran. Nào là thành Cát bị quỷ ám, loài quỷ dữ đã đánh hơi thấy máu đã thấm ba tấc đấc ở kinh thành. Những tin đồn ấy đêm qua còn ám ảnh trong giấc ngủ của nhà vua. Trong cơn mơ, ngài thấy con mắt mở trừng của quan Tổng đốc hướng thẳng về mình, cái miệng còn một nửa của lão há to, nhễu nhại máu đen, tiếng van xin Vương thượng hãy cứu lão, bởi công lão đã dâng không biết bao nhiêu thuốc trường sinh để nhà vua đến tuổi qua năm mươi còn sung mãn. Giấc mơ đáng sợ đến mức Vương thượng lên cơn co giật giữa đêm, mất hết hơn hai giờ chăm sóc thuốc thang vẫn chưa khoẻ hẳn. Chỉ khi ngài cầm quả mơ của nhà buôn đem về dâng hiến thì mới thấy lòng thực sự dịu lại. Ăn một quả rồi tạm chợp mắt, tâm trạng ngài nhẹ nhõm lạ thường. Buổi chiều, như sực nhớ ra chuyện gì, ngài cho đòi Tahal vào cung. Tahal nghe lệnh, tức tốc ngồi xe vào cung, đến thư phòng, kính cẩn quỳ chào Vương thượng.

Nhà vua mỉm cười, mắt hấp háy vài tia sáng mơ màng:

“Tahal, bạn của người đã khuất, ta chia sẻ với ông lòng tiếc thương một người bề tôi trung thành của xứ Cát. Ta cam đoan sẽ tra rõ nguyên nhân để ông bạn già của chúng ta được an ủi ở thiên đàng… Ta cũng mừng vì những quả mơ ông mang về làm ta an lòng lắm thay. Ta ăn một quả mà khoẻ hẳn, hết sầu lo, lại thấy như được thần linh an ủi. Thứ quả này nếu được trồng ngay trong vườn ngự uyển thì hay quá.”

Nghe giọng nhà vua trong cơn nghiện bùa mê, Đức ông đã biết rõ vua muốn gì, bèn nửa kín nửa hở mà kể câu chuyện Vệ thần. Nhưng khác với Quan tổng đốc tham lam, Vương thượng lại là kẻ một mực sùng tín. Nghe xong, nhà vua giật mình, nghĩ ngợi một lúc rồi bảo:

“Vệ thần đã căn dặn thế ắt có nguyên do của Ngài. Tahal, ông hẳn là sứ giả của Ngài gửi đến. Nếu ông có được ngài khải thị cho lần nữa thì hãy nói rằng vua tôi xứ Cát nguyện thờ cúng khói hương Vệ thần không thua gì các thần linh khác. Ông có biết tên gọi và hình dáng của Vệ thần thế nào không? Ta cho hoạ sĩ vẽ ngay, cho thợ điêu khắc tạc tượng đá quý để thờ cho thêm phần long trọng.”

“Thưa Vương thượng, Vệ thần đến nay chưa để lộ tên. Dáng hình ngài trong khải thị hiện ra uy nghi, bệ vệ hơn tất cả các thánh thần tôi được học từ kinh điển. Ngài thường ngước nhìn trời cao, có đôi mắt sáng trong, phản chiếu tất thảy các tầng mây và những vì tinh tú.” Tahal vừa lựa lời nói vừa nghĩ đến hố nước hướng thẳng lên trời, thầm cười khinh khỉnh.

“Hay. Hay quá! Bay đâu, cho vời Đại tư tế.” Đức vua reo to. “Tahal, ông khoan đi vội. Đêm nay ba chúng ta sẽ bàn chuyện tế lễ Vệ thần, cầu ngài bảo vệ chúng ta qua khỏi tai bay vạ gió và ban phúc cho xứ Cát càng thêm vĩ đại.”

Tahal thưa vâng, mỉm cười.

--

Danh tiếng của Vệ thần viễn xứ lan truyền như dịch bệnh khắp thành Cát. Chỉ trong một đêm, chương trình tế lễ cho Vệ thần đã được Đại tư tế trình thông qua hội đồng tôn giáo. Các hoạ sư vẽ cật lực đêm ngày, đến ngày thứ chín thì bức hoạ đầu tiên của Vệ thần - theo miêu tả của Tahal - đã hoàn tất. Trong tranh, con quỷ chiếm chỗ thần linh hiện ra uy nghiêm, sắc lạnh, dáng đứng cao to, phủ áo choàng dài đen thẫm như màn đêm. Khuôn mặt lạnh lẽo nhìn lên thiên không. Đôi mắt sắc lẻm, thẳm sâu, cất chứa ánh sao trời.

Lúc Tahal nhìn tranh vẽ, thú thật Đức ông giật mình. Tahal chỉ tiện mồm nói quàng xiên, nhưng khi vẽ ra, ông ta một lần nữa hình dung rõ mồn một cảnh tượng con quỷ, trong hình vóc tàn nhẫn và cô độc ấy, đã cố vươn tay chạm đến biên giới của bầu trời sáng chói.

Thần giao cách cảm? Quỷ ám ngải đeo? Tahal không quan tâm.

Ông ta bị cuốn vào cái vòng xoáy mê đắm của nhạo báng và trả thù. Tranh vẽ xong thì đến tượng của con quỷ được dựng khắp các điện thờ lớn nhỏ, thấm đẫm hương trầm và những lời chúc tụng. Những bài ca khen ngợi Vệ thần được viết ra, xướng lên rầm rộ. Tahal, sắm vai người sứ giả cần mẫn của Vệ thần, đều đặn dâng mơ cho cung điện và hội đồng tư tế. Quả mơ ướp ma thuật của quỷ dữ giờ đây trở thành lộc thần ban, phàm là người có phúc lắm mới được hưởng. Lúc mới ăn thì thì sung sướng khoan thai, mà ăn xong rồi thì mấy hôm sau cứ bồn chồn, hồi hộp, run rẩy như vừa bệnh dậy, trong lòng cứ sợ hãi một cái bóng vô hình. Đám quý tộc cho mời Tahal đến chơi nhà liên tục, dâng ra nào châu báu, ngọc ngà, rồi nô lệ, rồi thiếp hầu lộng lẫy. Đổi lại, chỉ xin Tahal ưu ái tặng thêm cho ít quả mơ thần để họ tiếp tục chìm đắm vào ảo vọng. Rồi tháng sau, nỗi hụt hẫng và sợ hãi sau khi mơ hết lại càng thêm nghiêm trọng. Cứ thế mà cả một đám vua quan quý tộc thành những sinh vật nửa tỉnh, nửa mê, chẳng còn quan tâm mấy đến những lớp vỏ bọc đạo mạo chúng khoác bên ngoài tấm da người nữa.

Chỉ trong ba tháng, Tahal gần như đã hoàn thành công cuộc đặt con quỷ lên ngai chúa tể. Mọi sự thuận lợi quá. Suôn sẻ đến mức bản thân Tahal thấy buồn cười. Đời ông ta buôn bán tứ phương, chưa có chuyến buôn nào thành công rực rỡ như thế. Có lẽ thành Cát đứng đáng với sự báng bổ này, bởi tất cả những hoang đàn và tội lỗi đã xảy ra sau và dòng máu đã chảy sau những bức tường tinh xảo của thành Cát, dưới con mắt nửa mở nửa nhắm của tất cả những kẻ có quyền lực, từ người trần mắt thịt đến thần thánh ngự trên cao.

Con quỷ càng được thờ phụng thì càng trở nên mạnh mẽ. Thoạt tiên, hắn có lại chút bóng dáng lấp ló trong đáy nước, khiến những người hầu cận mà Tahal sai chăm sóc vườn giật thót. Qua từng ngày, từ một cái bóng mờ, hắn trở thành một thành hình hài dặt dẹo, rồi lưng thẳng dần, tay chân cứng cáp hơn, quyền phép cũng ngày càng hùng mạnh. Thỉnh thoảng, theo chỉ điểm của Tahal, hắn lại vặt đầu vài kẻ tham lam để thị uy. Tahal chẳng hề ghê sợ trước những cảnh tượng ghê rợn mà ông ta chứng kiến, còn lấy đó làm vui.

Một chiều kia, Tahal đến vườn, thấy bên hố nước đã là một thanh niên gầy gò, dong dỏng cao, tóc đỏ như tàn lửa, áo choàng đen tuyền gần như tan vào mấy bông hoa dại dưới đất. Người này lặng lẽ đứng nhìn xuống mặt nước đang chuyển từ nắng chiều thành màn đêm, như đang tìm kiếm một điều gì đó mà chính hắn ta cũng sắp quên.

Tahal đằng hắng. Người thanh niên kia quay lại, để lộ một bên mắt mình đã bị khoét thủng, con mắt còn lại trong ngăn ngắt, nhìn như xuyên thấu thế gian, đúng như những gì Tahal đã hình dung. Trên người hắn là những vết thương chằng chịt, đã hoại tử từ rất lâu về trước. Trên lưng của hắn, chỗ lẽ ra là đôi cánh rộng, giờ đây chỉ còn hai khúc xương nhô ra dưới tấm áo choàng đen.

Tahal cười, vái chào: “Ngài cuối cùng cũng sống dậy.”

Con quỷ lắc đầu. Hắn không sống, không chết, không là cái gì được định nghĩa, được nêu danh. Thậm chí sức mạnh giờ đây hắn có cũng là nhân danh một vị thần giả mạo.

“Ngài xem, bây giờ không một thánh thần nào có uy vọng bằng ngài nữa. Chẳng mấy chốc, toàn bộ các tượng đài khác sẽ sụp đổ. Ngài sẽ là Vệ thần quy nhất của xứ Cát giàu có. Lúc đấy ngài muốn là sống hay là chết, há chẳng phải dễ như trở bàn tay?”

Con quỷ chỉ nhìn sang khu vườn, im lặng hồi lâu.

“… Đại tư tế hôm qua cho mời tôi ngày mai sang điện thờ lớn, bảo rằng vừa hội đồng tư tế vừa thu nhận mấy đứa trẻ mồ côi. Khoảng hai chục đứa, nam nữ có đủ. Lão nói chúng nó thanh tú lắm, tôi nhìn sẽ thích, nên mong tôi tối mai đến chứng kiến lễ tẩy trần cho mấy đứa bé. Đức vua cũng sẽ giá lâm để chúc phúc.” Tahal cười ha hả, giọng trào phúng vô cùng. “Ngài nghĩ xem, lại có chuyện dơ bẩn gì sắp xảy tra trong ngôi nhà của các đấng linh thiêng đây?”

Tahal cười ngặt ngẽo, ôm bụng cười lăn cười bò, như lâm vào mê sảng. Thốt nhiên Đức ông thấy bên mí mắt ươn ướt. Quái lạ thật, những chuyện bẩn thỉu này ông ta thấy mãi đã thành quen, lần đầu tiên chứng kiến đã là chuyện của hơn hai mươi năm trước, lúc tất cả con cái của ông ta còn sống, chưa ai chết đi bởi bắt cóc, chuốc thuốc độc hay mất xác trên đường. Những ký ức này đã chìm sâu lắm, mà vì sao trong tích tắc này ông lại chợt nhớ ra, rồi sâu trong lòng dấy lên cơn nao núng?

Tahal quẹt mắt, bình tĩnh lại: “Tối mai, tôi mang một giỏ mơ làm quà. Ngài cũng xem xét hạ cố mà đến chúc phúc Vương thượng và Đại tư tế, được không nào?”

Nói rồi, ông ta bước ra khỏi vườn.

"Azariell. Kẻ bị nguyền."

Tiếng nói khàn khàn của con quỷ khiến Tahal khựng lại. Lão quay người, nhìn con quỷ, cúi chào:

"Tahal. Lái buôn thành Cát."

--

Không ai nên nhớ đến những gì đã xảy ra trong đêm mùa hạ ấy.

Lúc Đức ông thành Cát bước ra khỏi cánh cổng nặng nề của điện thờ lớn, ngọn lửa đã bốc lên. Tất cả mọi quyền lực trần gian đều đã nằm lại phía sau, trong đống lửa càng lúc càng quện vào vải vóc và gỗ trong sảnh chính, phủ lên vai Tahal lớp màu đỏ quỷ dị như máu dơi.

Tahal đứng lặng trước thềm đá trắng, giữa bầu hỗn loạn bắt đầu vỡ ra xung quanh. Những đứa trẻ con hối hả chạy ra ngoài, vượt qua chân Tahal, túa xuống thềm rồi biến mất vào đám đông đang chực chờ kéo tới. Đi mau, lũ trẻ kia, chúng bây không nên ở lại cái nơi trác táng và tội lỗi này. Tất cả những gì xấu xa nhất hãy để cho người lớn như Đức ông gánh vác. Còn đám trẻ thì hãy chạy đi, chạy đến nơi mà ít nhất tai ương chưa kéo tới.

Ở đằng sau Tahal, vượt qua cổng vòm lớn và hành lang đang rực lửa, sâu trong đại điện, trên những chiếc bàn phủ khăn lụa thêu thấm đẫm rượu và cũng đang bắt lửa, Vương thượng, Đại tư tế, các quan cận thần và các thành viên hội đồng tín giáo còn đang mê say chưa chịu tỉnh. Ai cũng đang hềnh hệch cười, áo quần xộc xệch, có người còn cởi truồng nhảy múa, vồ bắt những nhiếc cột, chiếc xà bỏng lửa đang rơi xuống từ trên trần nhà. Trên bàn thờ chính là những quả mơ lăn lóc, thơm lừng lựng bất chấp mùi khói đặc quánh. Vài quả đang lăn đến bên chân Vương thượng, ngài nhặt lên, cười say đắm, hôn hít nó rồi ngấu nghiến nó như một con dơi hút máu. Rồi Nhà vua nằm vật ra, ễnh bụng, lấy làm khoái chí. Ngài đang ở cực lạc rồi. Mà không chỉ nhà vua, bầy người trong điện thờ đều thế.

Rồi thốt nhiên có một người tru một tiếng dài như sói. Mặt gã biến dạng trong tích tắc. Mắt gã lồi ra, hằn tơ đỏ, như đang chứng kiến cơn ác mộng đáng sợ nhất. Gã lao vào một chiếc cột đang cháy khiến nó vỡ ra, đè xuống người gã.

Rồi đến các quan hầu Đức vua.

Rồi đến Đại tư tế, kẻ đã dày công tìm kiếm hai mươi đứa trẻ xinh xắn nhất trên toàn xứ Cát, bất chấp chúng mồ côi hay bị cướp đi khỏi những mái nhà nhỏ, khi những đôi mắt bé còn nhắm nghiền trong giấc ngủ say, trước khi cha mẹ chúng kịp gào lên đau đớn.

Rồi cuối cùng, không ai khác, là Vương thượng cao quý. Ôi, nhà vua của thành Cát và những thành trì trù phú bao quanh sa mạc, là kẻ được thánh thần ban phước với những cuộc viễn chinh không để lại gì ngoài những đống máu khô thấm xuống ba tấc đất. Kết cuộc của một ông vua cũng chẳng hơn gì những người đã chết dưới vó ngựa của ngài - đều trở thành bụi than và quay về mặt đất.

Lúc sắp tắt thở, Vương thượng lắp ba lắp bắp, mắt trừng trừng đối diện với con quỷ mà ông ta lỡ tôn thờ trên đầu trên cổ mình. Giây phút hắn xuất hiện, cực lạc hoá thành biển đen. Thế là con quỷ lừa lọc, gian manh, xảo trá, tàn nhẫn nhất ba cõi, đã hiện nguyên hình từ bóng tối.

Hắn đứng yên đó, trước Nhà vua đang đổ gục, mặc kệ các thánh thần trên đầu ông ta đang cố sức vung kiếm đâm xuống. Con quỷ trừng mắt nhìn lên. Trong khoảnh khắc đó, những vị thần cai quản đại điện run rẩy, biết rõ rằng họ đã thua rồi. Họ đã bị chèn ép, bị suy yếu bởi thiếu lễ tế cung phụng, bị che mờ mắt bởi một con quỷ mà họ đã từng đuổi ra khỏi ba cõi thật lâu về trước.

“Az…” Một vị thần hốt hoảng, cố nhớ lấy tên con quỷ. “Azariell, kẻ đoạ đày. Là mi, là mi!”

Azariell, giờ đây lã lấy lại hầu hết quyền năng và thậm chí còn khủng khiếp hơn lúc trước, chỉ ngước nhìn lũ thần thánh yếu hèn trên cao. Ngày xưa, chúng muốn hắn đóng cho tròn vai trong những huyền thoại thiện thắng ác, thần thắng quỷ ma. Hắn ngại gì đâu mà không đóng cho tròn vai diễn? Cái nhìn của Azariell xuyên thấu chúng, móng vuốt hắn đưa ra đâm thủng chúng. Những vị thần ngã xuống, rơi rụng theo bầy người đang lao vào cấu xé nhau, rồi tất cả chìm vào biển lửa.

Từ trên cao nhìn xuống, điện thờ chính nom như một đốm sáng rực rỡ trong bóng tối mênh mông.

Tahal bước ra ngoài xa, lẫn vào đám đông. Quân lính kéo đến chữa lửa. Dân chúng lân la kéo tới, vừa kinh hoảng vừa tò mò chứng kiến đám cháy ngùn ngụt thiêu rụi hết thảy những gì mà họ từng nghĩ là không thể xâm phạm, không thể phá vỡ. Đó đây có người cất tiếng khóc. Không phải vì tiếc thương, mà là bởi cái cảm giác ít nhất không có cái ác nào không cần trả giá, và một xíu, một xíu thôi, khoái cảm của sự trả thù.

Đám cháy tráng lệ ấy mãi đến hửng sáng mới được dập tắt dần. Thành Cát, trong một đêm, đã dùng cạn nguồn nước dự trữ của nó. Tahal không quan tâm, cũng không lấy làm đắc chí. Trong lòng ông ta chỉ là sự trống rỗng, dù tất thảy mọi thứ khiến ông ta tha hoá đến mức này đều đã chết.

Đức ông cưỡi lạc đà suốt đêm đi vào sa mạc, mải miết hướng về ốc đảo. Kẻ giả danh thần thánh, giờ đây đã lại là một chúa tể, hẳn là còn đợi Tahal bên mép nước lọc ra từ máu mình, để xem giao kèo của một con quỷ và một con buôn còn gì kế tiếp.

“Chúng ta đánh lên trời không, ngài Azariell?”

Tahal ngước lên, thì thầm với bầu trời lồng lộng, vô tình.