CoD | Nâu Trầm - Andata

3. Nâu Trầm

 

Ngày 16 tháng Mười.

Chuông báo thức đổ lúc sáu giờ. Anh nhà văn choàng tỉnh sau một giấc ngủ ngắn. Anh không màng kéo rèm cửa lên để nhìn ra thành phố. Trong bóng tối còn đọng lại trên sàn nhà, anh xuống giường, bước vào nhà tắm và nôn oẹ. Lúc hai giờ sáng anh có uống một cốc sữa, quên mất chuyện mình bị dị ứng lactose. Sữa trào hết ra ngoài và bốc mùi chua loét như đã bị thiu từ mấy tuần lễ trước. Anh mở vòi nước tắm, liên tục đưa tay vuốt ngược tóc mình lên đỉnh đầu như muốn chải chuốt lại những suy nghĩ rối bù như. Anh thay một chiếc áo thun mới khô vừa lấy từ lan can hồi đêm.

Anh bước ra cửa, đi xuống bốn tầng cầu thang của cư xá. Toà nhà này được xây hẳn là từ khi anh chưa ra đời. Sự cũ kỹ của nơi này đã không còn trong biên giới xù xì của thực tại, mà lùi thật xa vào một vùng mơ hồ tựa như hồi ức. Toà nhà có lẽ đã từng rất đẹp và tinh xảo, ẩn náu sau những góc phố đông, chỉ đợi người thực sự có duyên tìm thấy mới phô bày những lan can xinh xắn nhô ra ngoài hứng nắng mưa. Giờ đây, lan can đã cũ, song cửa đã mòn. Toà nhà vẫn nép mình sâu trong phố, nhưng chỉ còn lộ diện trước những người buồn bã.

Anh dọn đến sống trong cư xá kể từ khi viết văn. Ở đây, anh có thể bộc lộ muộn phiền của mình mà không bị ai phán xét. Trong sự giam cầm mang tính bản nguyên, chữ bắt đầu tuôn chảy.

Bất chợt anh nhận ra mấy hôm nay mình không đi đâu. Bản thảo cuốn tiểu thuyết đã kéo tuột anh vào hố đen, bắt anh lúc nào cũng trong trạng thái yếu ớt như các nhân vật của mình khi bắt đầu hành trình trượt dài vào tuyệt vọng. Khởi thuỷ là một chút vết thương nhỏ, rồi to dần thành lở loét vô phương cứu chữa, từ đớn hèn thành thống khổ, từ vùng vẫy thành chịu đựng tuyệt vọng. Tiến trình là như vậy. Mọi hành động của mở đầu là điềm triệu cho kết thúc. Mọi cao trào ở đoạn giữa đều thúc đẩy tất cả rơi vào hỗn loạn. Thế rồi tất cả sẽ dừng lại, chỉ còn im vắng vô biên nằm sau dấu chấm hết câu.

Anh nhà văn nhận ra hôm nay anh nên đi đâu đó, một mình. Để anh thở một chút, trước khi quay về máy đánh chữ cùng những trang giấy để xô tất cả vào vực thẳm.

Anh đợi xe buýt ở bến gần nhà. Tầm năm phút sau, chiếc xe tuyến nội đô trờ đến, cửa rung lên rồi bật mở. Anh bước lên xe, tìm chỗ ngồi và xem hướng tuyến đường đi.

Xe đi về phía Đông Nam, ở trạm dừng thứ mười, từ đó đi bộ thêm khoảng mười phút, anh sẽ đến nhà Nâu Trầm.

-

Nâu Trầm là độc giả của anh.

Họ chưa bao giờ gặp nhau. Nhưng họ viết thư. Nếu tập hợp lại hết, những lá thư họ gửi cho nhau sẽ thành những kiện hồ sơ đồ sộ chất cao đến tận trần, khi xổ tung ra sẽ thành lũ lụt ngập trong phòng.

Nâu Trầm bắt đầu viết từ hơn một năm trước. Ban đầu, anh không quen với sự nhiệt tình ấy và chỉ viết qua loa để hồi âm. Nhưng theo những lá thư gửi đến ngày một nhiều hơn, anh cũng bắt đầu mở lòng và viết lại dài không kém. Nâu Trầm gửi đến, bình luận tình tiết trong tiểu thuyết và chép tay những đoạn dường như cô tâm đắc. Anh nhà văn gửi lại những lời cảm ơn chân thành kèm những ghi chép về suy tưởng của anh khi viết, về cách anh hình dung tình huống, nhân vật và những quyết định họ đưa ra đều dẫn đến một kết cuộc không thể nào cứu rỗi.

Nâu Trầm đã từng viết: “Dù kết thúc bao giờ cũng là dở dang hoặc buồn bã, văn của bạn luôn chứa đầy màu sắc. Người khác có thể không đồng ý với tôi và cho rằng bạn chỉ là một người viết một màu. Nhưng tôi tin vào những gì mình đọc được. Tất thảy mọi thứ bạn lựa chọn và sắp xếp lại bên nhau đều mang cảm giác rằng chúng được vẽ nên bởi một người rất hiểu về ánh sáng và cách ánh sáng tương phản qua bóng tối. Dù thoạt nhìn màu xanh xám là tông màu chủ đạo, cứ qua mỗi đoạn lại là một sắc tố rõ ràng, cùng với tính chuyển động chưa bao giờ làm tôi hết ngạc nhiên. Truyện của bạn giàu có vô biên về chi tiết, được bạn kể ra với sự nhạy cảm và lòng trắc ẩn rất đáng mến. Tôi thật lòng không hiểu vì lý do gì bạn chọn lối viết u ám muộn sầu như vậy. Tôi chỉ là người đọc mà thôi. Có lẽ một ngày nào đó, giữa tôi và cách viết này không còn mối liên hệ tinh thần nào nữa, nhưng đến chừng nào tôi còn cảm nhận được các sắc độ của nỗi buồn trong lời bạn kể, tôi sẽ còn dõi theo và cố gắng lắng nhe.”

Anh bắt đầu dấn sâu vào một mối quan hệ bất định, không có gì khác làm tin ngoài những bức thư. Ngoài tiểu thuyết của anh, họ bắt đầu nói sang âm nhạc và hội hoạ, về quá khứ và tương lai của thành phố, những ký ức mờ nhạt về một điều đẹp đẽ nào đó đã vuột qua khỏi tầm tay và những tia hy vọng mỏng manh rằng trong biển người vẫn có đôi chút niềm vui. Họ không còn đơn thuần là tác giả và người đọc nữa, mà trở thành bạn đồng hành trên một chuyến tàu dài đi đến một nơi xa xăm tít tắp, với đích đến không quan trọng bằng hành trình.

Dần dà, trước khi anh nhận ra, anh đã trở nên quá ỷ lại vào những lá thư. Anh viết cho Nâu Trầm nhiều hơn cô gửi lại. Anh khắc khoải đợi hồi âm, cáu gắt khi hòm thư dưới nhà trống rỗng và mừng rỡ vô vàn khi nhận thư mới, dù Nâu Trầm viết ngày càng ngắn. Anh tốn nhiều giờ đọc đi đọc lại những bức thư cũ và độc thoại với chúng, như thể từ những dòng chữ ấy cất lên tiếng gọi của người tình.

-

Một buổi đêm, rất muộn, khi âm thanh phố xá chỉ còn là những chuỗi thì thầm, anh ngồi dưới ngọn đèn bàn nhỏ, bắt đầu viết những dòng đầu tiên của cuốn sách mà vài tuần sau được đặt tên Giao Hưởng Cái Chết. Thế rồi anh chợt phát giác một điều không ổn.

Nâu Trầm đã không trả lời anh từ hơn một tháng qua.

Những lá thư anh đơn phương gửi đi trong suốt thời gian ấy đổ đầy chính bản thân anh, tràn lan trên giấy. Anh vừa liên thiên dông dài lại vừa hèn nhát dè dặt. Anh viết những điều không đâu vào đâu để che bớt nỗi hoang mang không biết cô có muốn đọc thư nữa hay không. Anh đặt bản thân mình vào trạng thái dễ tổn thương bởi nỗi tự ti sâu sắc, vừa muốn níu giữ vừa không biết phải làm sao. Anh không biết gì về người độc giả của mình mà cứ tưởng sẽ giữ được họ mãi mãi.

Trong nỗi u sầu tù đọng của cư xá, dưới ánh đèn leo lét và những trang bản thảo ngổn ngang, anh phát hiện ra rằng Nâu Trầm đang rời xa anh. Không! Cô đã xa anh rồi. Cô quay lưng đi và biến mất, không còn muốn lắng nghe anh thêm một lần nào nữa.

Anh ấn mãi một phím trên máy đánh chữ, toát mồ hôi và lên cơn choáng váng. Thật ngộ là cảm giác mất đi một độc giả lại không khác mấy với một cơn suy tim. Lồng ngực anh co thắt, phổi teo tóp, cơn đau lan tràn trong anh như có một bụi xương rồng sinh trưởng trong tích tắc, đâm triệu gai nhọn sâu vào ruột gan. Anh cố sức thở, ngả người về sau. Nhanh chóng và hiển nhiên, anh rơi vào tuyệt vọng. Tựa hồ như anh đi quanh một miệng hố sâu và cảm giác được trọng lực của hố sâu hun hút đang kéo mình xuống. Anh nhìn ngó, cân nhắc, rồi vẫn nhảy xuống hố. Anh phát hiện ra mình vừa làm chuyện vô nghĩa, mà không thể nào làm gì khác được, bởi bản thân đã tan nát dưới đáy sâu tối hù ấy.

Ngay cả khi anh rạn vỡ, ngoài địa chỉ Nâu Trầm đề trên thư, anh vẫn không biết một chút gì về cô.

-

Anh xuống xe buýt khoảng hơn mười giờ. Từ trạm dừng, anh đi bộ thêm hai dãy nhà, qua một đoạn bờ sông đang làm bến đỗ cho vài chiếc tàu hàng neo đậu và khu chợ nhỏ nằm dưới hàng cây rợp bóng. Trong tháng Mười trì trệ, cả người, phố chợ và tàu đều ù lì lê lết. Qua hết khu chợ là khu nhà phố nơi Nâu Trầm đề lên bìa thư gửi đến. Khu nhà trông như được xây từ hơn hai thập niên trước, với con đường nội khu chia cắt hai lô nhà xây đối xứng nhau, mỗi nhà có một khoảng sân nhỏ được bao bọc bởi hàng rào trắng ngà hoặc xanh nhạt. Nhà hầu hết cũng sơn màu nhạt, tường hơi cũ phai theo năm tháng nhưng vẫn còn giữ được vẻ trang nhã, khiêm nhường đặc trưng của kiểu nhà phố trung lưu. Một số nhà còn đặt hòm thư trên giá gỗ. Anh nghĩ, Nâu Trầm hẳn đã gửi thư cho anh từ một trong những hòm thư ấy.

Anh đứng sững người trước con đường im vắng rợp bóng bàng lá rộng. Anh chần chừ, không chịu bước tới. Ngay từ đầu, chuyện này đã định sẵn là hỏng cả. Anh chưa bao giờ giữ nổi bất kỳ ai. Có một chút nắng sáng trong phủ qua vòm lá rọi xuống mắt anh. Nỗ lực xác định màu của vòm lá và màu nắng của anh thất bại. Anh thấy mình tuyệt vọng.

Từ góc đường cuối khu nhà, một thiếu nữ dắt xe đạp tím xuất hiện. Từ xa nhìn đến, anh chỉ thấy cô có nước da hơi nâu, mặc quần jean xanh, áo thun có cổ sọc xanh hồng. Cô không đội mũ, để lộ mái tóc dày hơi rối phủ ngang vai. Anh nghĩ trông cô chừng hai mươi tuổi.

Cô dắt xe đến trước một ngôi nhà nhỏ, dừng xe lại cúi xuống rồi mở cổng rào. Dường như cô mỉm cười. Anh không rõ. Nắng dường như làm đau mắt anh, làm anh không đọc được nhiều biểu cảm trên khuôn mặt cô. Hoặc cô vốn dĩ không dễ dàng bộc lộ cảm xúc, như thể chuyện cười tươi thêm một chút, thoải mái hơn một chút không thuộc về cốt lõi sinh mệnh của cô.

Anh vẫn đứng im quan sát. Đó có phải là Nâu Trầm hay không? Cô gái bâng quơ ngắt vài bông sao nhái trong vườn rồi cột lại thành một bó hoa đoá tía đoá vàng đặt vào giỏ xe, có phải là cô ấy hay không? Dáng bước đi chậm rãi ấy có có giống những tiếng thở dài Nâu Trầm gửi vào thư cho anh hay không? Cô tiếp tục dắt xe đạp vào trong sân, rồi trong thoáng chốc cô nghiêng đầu nhìn về phía hòm thư sơn đỏ nâu đặt bên hàng rào.

Khoảnh khắc ấy dường như dài ra bất tận, chứa đầy ảo giác về những tiếng thở hấp hối xa xăm. Có gì đó nặng trĩu mà nhạy cảm vô phương thoáng lướt qua gò má của người thiếu nữ. Rồi dường như hoảng hốt vì mình vừa làm một việc không phải phép, cô vội lấy lại vẻ mặt bình thường, chôn những trĩu nặng xuống dưới nhiều tầng im lặng. Nghiêm mặt trở lại, cô dắt xe vào vườn, bước lên những bậc tam cấp, vào nhà. Cô biến mất.

Anh biết mình đúng. Không thể nghi ngờ được. Kiểu cách của cô gái thật chậm rãi, dè dặt, và trong sáng đến nỗi có thể khiến người ta buồn bã. Khi cô ấy biến mất, anh biết đó là chính cô. Hòm thư, những lá thư, sự từ chối không ngó ngàng đến những gì anh gửi đến. Không thể nào khác đi được.

Cùng lúc ấy, anh nhận ra rằng bất cứ gì xảy đến giữa những lá thứ, bất cứ viễn vông nào anh ôm ấp và níu kéo suốt bao tháng ngày qua, nay đã chết.

Từ trong trứng nước.

 

-

Anh rời khu phố, quay trở lại lối bộ hành ra chợ, bước qua khu bến đậu của những chiếc tàu nằm im lìm ban trưa. Anh mua nước ở trạm xe buýt, biết mình nên ăn gì đó để xoa dịu cơn đau xót trong dạ dày. Nhưng anh nhìn quanh mãi mà không biết nên ăn gì. Anh ngồi xe buýt qua nhiều trạm, xuống xe, đi tiếp đến trạm tàu điện, đi hết tất cả các trạm mà anh có thể. Anh đi mải miết, xuyên qua lòng thành phố như một sinh vật phù du trôi theo hải lưu. Tầm bốn giờ chiều, anh đứng trước toà thị chính và ngắm nhìn kiến trúc uy nghiêm ấy hồi lâu. Anh đến nhà sách bên kia đường và mua tất cả những số tạp chí mới ra trong tuần, rồi ghé cửa hàng tiện lợi để mua một ít hoa quả. Tất nhiên anh sẽ không ăn, để vài ngày sau chúng sẽ rữa nát rồi bị vứt đi. Anh bước tiếp theo hướng về cư xá, ngước nhìn bầu trời bị giới hạn bởi đường nét của các toà cao ốc. Anh nghĩ mình đừng nên trông mong bất cứ gì, kể cả ngày mai.

Hôm nay thật vô nghĩa biết bao, anh nghĩ thế, mà không còn chút nước mắt nào để khóc.

4. Andata

 

“Xin hỏi, cô là…?”

“Vivant, hôm nay ông có thể gọi tôi như thế.”

“Xin chào cô, Vivant.”

“Mời hai vị vào.”

Nàng nép qua để hai ông khách bất ngờ của mình vào trong phòng khách. Không hiểu sao họ biết nàng xin nghỉ hôm nay, sau những chuyện lạ lùng vô lối xảy ra trưa qua. Họ mặc áo khoác tối màu, nom rất bí ẩn. Một người lớn tuổi hơn, hơi hói đầu, trạc ngoài năm mươi, trông có vẻ là cấp trên của người khoảng ba bốn, ba lăm tuổi còn lại. Cô mời họ ngồi xuống sofa trong phòng khách, hỏi xem họ uống trà hay cà phê, nhưng người lớn tuổi hơn lắc đầu: “Chúng tôi là cảnh sát, đến đây vì công việc.”

“Có phải cô là trưởng phòng kinh doanh của cửa hàng ô tô lớn trên trục đường Đông Nam không?”

“Vâng.”

“Hôm qua cô có đến gặp khách hàng tại quán cà phê gần bờ sông?”

“Đúng vậy.”

“Người khách đó định mua gì?”

“Ông ấy đặt hãng làm riêng một chiếc CLS 350 coupé cửa xoay. Một dòng xe không dễ tìm thấy trên thị trường trong mấy năm nay, nếu muốn mua xe mới thì chỉ có thể đặt riêng cho hãng, mà không phải lúc nào hãng cũng nhận, do một số vật liệu có khi khan hiếm. Lần này may mắn là hãng nhận, mà khách phải trả giá rất xa xỉ.”

“Sang trọng nhỉ.” Gã thám tử già nhíu mày, trên khuôn mặt ông ta lộ các nếp nhăn do tuổi tác. Người thám tử trẻ hơn hừ mũi, tỏ ý khinh thường.

“Quên mất, là chúng tôi thất lễ. Tôi là G. Anh bạn kia là V. Chúng tôi từ phòng hình sự của cục cảnh sát thành phố. Chúng tôi không mấy khi mặc đồng phục, nhưng cam đoan với cô giấy tờ thì đầy đủ cả. Hôm nay chúng tôi đến vì muốn cô hợp tác với sở.”

“Tôi có thể giúp được gì?” Nàng dường như không quá chú tâm vào hai người khách, lơ đãng nhìn những cuốn sách trên kệ ốp tường bên cạnh.

G trầm giọng: “Vivant, khách hàng hôm qua của cô là tội phạm.”

“Ông ấy có nói thế, rằng ông ta tổ chức một đột các sát thủ thiện nghệ và đã thành công ở rất nhiều thành phố. Ông ấy kể cho tôi nghe một cách nhẹ nhàng như kể chuyện trong phim.”

“Hắn nói thật đấy. Tên hắn là Lữ, chắc cô đã biết rồi. Hắn ngạo mạn đến mức chưa bao giờ dùng bí danh. Hồ sơ chúng tôi nhận được ghi lại đầy đủ thành tích của hắn. Hai mươi tám nhân vật quan trọng bị ám sát trong vòng mười năm. Chính tay hắn xử lý tám vụ. Hơn mười anh em của chúng tôi ở nhiều thành phố khác nhau đã tử nạn trong những cơn truy đuổi mà kết thúc luôn là hắn vuột mất khỏi tầm tay. Lữ là một con quái vật.”

“Ông ấy không che giấu chuyện này.”

“Vì khử cô là chuyện dễ như trở bàn tay với ông ấy.” G ngả người ra sau, tư lự. V tự tiện bước vòng quanh phòng khách của cô, ngắm nghía mọi vật dụng xung quanh, ra chiều tò mò vì sao một căn nhà nhỏ và ít đồ đạc vẫn có thể trông mệt mỏi đến thế này, dù chủ nhân của chúng là một người trông rất thanh lịch và gọn gàng.

“Cô Vivant này.” G chồm về phía nàng, hai tay nắm lại, nhìn nàng chăm chú: “Hôm nay Lữ có thể sẽ tặng hoa cho cô. Chúng tôi đã biết sáng nay hắn đặt hoa và gửi đến địa chỉ này. Cô phải nhận và đọc thiệp kèm theo đó. Trên thiệp chắc chắn là một lời hẹn gặp. Cô sẽ ra gặp hắn. Chúng tôi muốn biết Lữ định làm gì tiếp theo. Dường như hắn không đề phòng cô.”

“Các ông dùng tôi để giăng bẫy phải không? Thành công thì tốt, thất bại thì như ông nói, Lữ giết tôi như giết một con kiến thôi.”

“Nhiệm vụ mà cô ơi, chúng tôi cũng không còn cách nào.”

Đúng lúc ấy có tiếng gõ cửa vang lên. G ra hiệu cho V đứng nép qua một góc, rồi nhìn qua phía nàng gật đầu nhẹ. Nàng hít sâu, nghĩ mình từ chối cũng muộn rồi. Nàng mở cửa, trông thấy người giao hàng mặc đồng phục xanh dương tươi cười, cậu ta đang bê một bó hoa trà tươi thắm, phải đến hơn năm mươi bông, bọc bằng nhiều lớp giấy mỏng dệt tơ vàng. Cậu dúi bó hoa vào tay nàng, nhẹ cúi người chào rồi đi mất. Nàng ôm hoa quay vào trong. G quẹt mũi, mỉm cười nhìn nàng như thể đang khoe khoang rằng ông ta đã nói đúng rồi.

“Cô xem có thiệp không?”

Nàng tìm giữa những cánh hoa trà đỏ hồng căng tràn kiều diễm, thấy một tấm thiệp nhỏ màu vàng. Thiệp viết: “Mong em ăn trưa cùng tôi. Mười hai giờ. Nhà hàng Andata. Tôi sẽ đợi đến khi nào em đến. Lữ.”

“Bây giờ là mấy giờ rồi?” G kéo tay áo lên nhìn đồng hồ: “Mới mười một giờ hơn. V, gọi về trụ sở kêu chi viện đi. Vivant, chúng tôi sẽ theo cô đến nhà hàng lúc mười một giờ ba mươi. Sẽ có các trinh sát xung quanh yểm trợ cô.”

Nàng nhìn người thanh tra nhanh chóng sắp đặt mọi thứ và nàng vừa trở quân chốt thí trong một ván cờ: “Vì sao lại là tôi?”

V bước qua góc khác của phòng khách, đang bấm điện thoại nhắn tin gọi thêm đồng đội, không để ý đến nàng. G cũng định phớt lờ, nhưng nàng hỏi lại, giọng gần như gằn lên từng chữ: “Vì sao?”

G lúc này mới nhìn nàng chăm chú: “Lữ yêu cô.”

“Không thể nào. Chúng tôi chưa bao giờ gặp nhau.”

“Lữ không nói dối bao giờ.” G lắc đầu. Lần đầu tiên từ nãy đến giờ, nàng thấy ông thanh tra tỏ ra bối rối. “Chúng tôi không thể giải thích. Nhưng hôm qua, lúc cô bình an bước ra khỏi quán, chúng tôi đều sững sờ. Tôi đinh ninh hắn sẽ kết liễu cô ngay để mau chóng xong việc. Chưa bao giờ có ai đó nhận sự ân cần của một con quái vật, trừ cô.”

“Không phải vì tôi còn vướng hợp đồng về chiếc ô tô ông ta mong muốn hay sao?”

“Không đâu. Vì là cô nên hắn mới mua xe. Chúng tôi đã rà soát các thư điện tử hắn gửi đến, mà hắn cũng không buồn giấu diếm. Lữ muốn chính cô là người ký hợp đồng.”

Nàng sững sờ. Lữ không nói dối.

“Thật kỳ quặc.”

“Đời có mấy khi không kỳ quặc đâu.”

 

-

 

Nàng thay một chiếc váy oganza xanh lục ngắn tay, nếp váy phồng nhẹ và đong đưa theo mỗi bước đi, quấn tóc bằng khăn lụa in hoa cúc thơm và mang đôi giày vải đế mềm. Nàng ít khi mặc màu sáng tươi tắn thế này. Nàng thoa một chút son môi, nhìn vào gương rồi thấy mình uỷ mị biết bao.

Nàng ra khỏi nhà, xuống bãi đỗ xe và khởi động chiếc Elise. Nhưng giờ đây nàng không phải là Elise hay Vivant. Nàng chỉ là một con ngốc với suy nghĩ rối bời. Nàng đã định hôm nay đi thăm anh nhà văn. Có lẽ anh đã trầm trọng thêm, không ăn uống gì và nằm co ro trong xó nhà. Nhưng bản thân nàng cũng không khá hơn. Nàng đã sa lưới và kẹt trong đám tơ nhện rối tinh rối mù này.

Andata là một nhà hàng nhỏ ở khu Tây và không mấy hào nhoáng nếu chỉ nhìn bề ngoài, được duy trì bằng lượng khách trung thành ưa thích sự lịch lãm chừng mực và không gian riêng tư của nó. Nàng đỗ xe trước nhà hàng, giao chìa khoá cho người bảo vệ, rồi đẩy cửa bước vào trong. Mặt sàn bằng đá hoa cương phản chiếu ánh sáng ấm dịu từ những chiếc đèn lồng trên trên trần nhà cao vút. Nàng nhìn quanh, thấy vài bàn có khách, vài người nhướn mày lên khi nàng bước qua. Cảnh sát, nàng nghĩ. G đã bày trận xong. Phục vụ ra hỏi nàng có phải là khách của Lữ hay không, rồi dẫn nàng đến chiếc bàn đã được đặt sẵn cho hai người. Trên bàn là một chiếc bình con, cắm một đoá hoa trà đỏ thắm.

Nàng đợi một lúc thì tiếng chuông cửa lanh lảnh vang lên, rồi từ vùng sáng bên ngoài, Lữ bước vào, cao ngất như thân cây trong rừng thẳm, vững chãi mặc kệ gió mưa. Ông mặc sơ mi xanh biển và một chiếc áo vest tối màu, cổ áo sơ mi không cài hết, để lộ một chút nước da rắn rỏi bên dưới. Ông bước đến chỗ nàng, từ trên cao nhìn xuống mái tóc đang buộc nhẹ bằng dải lụa in hoa và sống mũi nhỏ nhắn của nàng đang hơi run rẩy.

Lữ kéo ghế ngồi gần bên nàng, mỉm cười: “Tôi muốn đặt bàn trên ban công, nhưng nhà hàng nói trưa họ không mở ở trên tầng. Tôi muốn được ngắm em thật rõ.”

Nàng nhìn sang ông chăm chú, nghiêm trang, dò hỏi ông một ngàn lần “vì sao?” bằng ánh mắt. Lữ phì cười, đưa bàn tay rộng che đi đôi mắt nàng.

“Em nhắm mắt đi, rồi khi mở mắt ra, tôi mong em cười. Em nên cười nhiều hơn. Đằm thắm, cổ điển, đặc biệt yêu kiều.”

Nàng gạt tay Lữ ra khỏi mắt mình: “Ông đã nói câu này với bao nhiêu người rồi?”

“Hai người.” Lữ thành thật mà nói: “Vợ tôi và em. Vợ tôi đã mất vì bệnh nhiều năm trước. Em xem, giờ đây chỉ có em, tôi cùng với cô đơn.”

Nàng không đáp. Lữ gọi thực đơn để chọn món, gọi một đĩa sủi cảo hấp và canh cá cho nàng, bảo nàng không được uống rượu trong lúc yếu người nên gọi nước khoáng. Về phần mình, Lữ gọi bít tết và rượu vang.

“Hôm nay em phải ăn nhé. Tôi đã lo suốt hôm qua, nghĩ là mình quá đường đột làm em sợ. Em thấy khá hơn hôm qua chút nào chưa?”

Nàng lắc đầu: “Ông nghĩ xem?”

Lữ cười nhẹ, ra chiều hối lỗi: “Tôi chỉ muốn bộc lộ hết với em, như em đã bộc lộ cùng tôi. Hôm qua, khi em kể về những lần “rơi xuống giếng”, khuôn mặt em toát ra sự nhạy cảm mềm mại vô vàn. Tôi đã loáng thoáng hiểu, bên dưới dáng hình nghiêm cẩn khi em bước ra từ cửa hàng ô tô, em chính là như thế. Lúc em dễ tổn thương là lúc tôi có thể đến gần em nhất. Hôm qua là một dịp hiếm hoi, còn tôi là một người may mắn.”

“Nhưng ông bảo rằng ông sẽ giết tôi, vì tôi cản bước ông.”

“Em sợ không?”

Nàng không đáp ngay. Thức ăn được dọn lên, được bài trí xinh xắn trong những chiếc đĩa sứ trắng. Lữ chu đáo mở khăn ăn và rót nước cho nàng. Vừa ăn, vừa nghiêng người về phía nàng, giục nàng ăn đi, vì hình như nàng đã không ăn gì từ tận trưa hôm qua. Như người mê chưa tỉnh, nàng gật đầu, không chối từ cử chỉ thân cận cố tình từ người đàn ông nàng chỉ mới gặp hôm qua. Nàng ăn từng chút một, rồi ngừng khi gần nửa thức ăn còn chưa đụng đến.

Nàng chậm rãi ngước lên nhìn người đàn ông cao lớn, lịch thiệp và nguy hiểm tràn trề bên cạnh.

“Một chút.” Nàng nói. Sợ chứ, nhưng dường như chỉ một chút thôi.

“Tôi biết trong nhà hàng và bên ngoài đang có cảnh sát mai phục. Nếu tôi làm gì tổn hại đến em ngay lúc này, chúng sẽ xông lên. Cũng không sao, tôi cũng có người quanh đây. Nhưng quan trọng là ngay lúc này, tôi có em bên cạnh mình rồi.”

“Thế tôi nên làm gì? Cứ ngồi yên ở đây và đợi ông làm theo kế hoạch rồi quay lại giết tôi? Hay tôi nên đợi cảnh sát tiến lên và ông sẽ giết tôi ngay để dễ bề thoát thân?” Nàng nổi giận, run rẩy cả người. Vì sao tất cả mọi người đàn ông dù ở phía bên nào của xung đột đều nghĩ rằng nàng sẽ làm theo ý họ?

Lữ đặt một tay lên lưng nàng, tay kia giữ chặt lấy vai không cho nàng vùng vẫy. Nàng cảm thấy bàn tay rộng và ấm nóng của ông vỗ về lên lưng mình cho đến khi nàng kềm được cơn lẩy bẩy. “Chúng ta đi nghe nhạc đi?”

Nàng nhìn ông ngơ ngác. Lữ nhẹ nhàng nói: “Âm nhạc luôn làm dịu người đi một chút.”

Lữ gọi tính tiền, vẫn giữ lấy lưng nàng, thong thả đưa nàng ra ngoài, mặc kệ mọi ánh mắt nhìn theo trong nhà hàng. Bên thềm, người bảo vệ từ lúc nào không biết đã đưa chiếc Elise về lại trước cửa. Lữ không cho nàng lái, thay vào đó ông choàng người thắt dây an toàn cho nàng trên ghế phụ, rồi lái xe đưa nàng đi thêm vài dãy phố, dừng trước một cửa hàng đĩa nhạc lớn. Lữ dắt nàng bước vào, một trước một sau, một cao lớn điềm nhiên, một xinh xắn yêu kiều, trông hợp nhau đến mức không nên có mặt trên đời.

Họ vào trong, Lữ nói gì đó với quản lý cửa hàng, rồi đưa nàng đi giữa những kệ cao chất vô số CD và đĩa than của mọi thể loại âm nhạc trên đời, mở cánh cửa khuất sau dãy kệ nhãn vàng của hãng Deutsche Grammophon, bước vào trong một phòng dường như được thiết kế riêng cho khách nghe nhạc quen. Trong phòng là những máy hát CD, máy đĩa than, những dàn ampli và loa tinh vi được sắp đặt cẩn thận giữa những bức vách ốp gỗ, trong ánh đèn trần ấm áp. Ở giữa phòng là bộ ghế nệm êm ái. Lữ bảo nàng ngồi xuống, cởi áo ngoài cho nàng khoác, tháo giày cho nàng và đặt người vào trong lớp nệm êm.

Lữ dường như rất thạo chuyện âm thanh và đã chọn trước hết những gì ông muốn phát. Khi ông quay trở lại và ôm cả áo lẫn người vào lòng, những nốt piano đầu tiên đã ngân nga trong không gian. Bruyere của Debussy, nhịp độ khoan thai, sau mỗi nốt nhạc ngân là một chút tiếng gõ đặc trưng của piano đứng. Nàng thì thầm hỏi, vì sao ông biết nàng thích nghe piano? Lữ không đáp, chỉ áp má vào vai nàng, vòng hai tay quanh bụng nàng như muốn xoa xịu hết những tổn thương nàng mang theo mình đã quá lâu. Tiếp tục thêm những bản nhạc hết Debussy đến Rameau, tất thảy đều dịu dàng ấm áp. Rồi sang Bach, Organ Sonata số bốn được viết lại cho dương cầm, tiếp nối bằng vài bản trong ghi âm Goldberg Variations của Glenn Gould. Nàng mỉm cười, không ngờ đến rằng một ngày nào đó, mình sẽ để cho một người lạ bước sâu thế này vào không gian nguyên sơ, không phòng bị, không giả hình. Nơi trong bóng tối, dưới giếng sâu, nàng ôm mình lắng nghe thời gian lặng lẽ trôi đi và cái chết sớm muộn gì cũng đến.

Hồi lâu sau, nàng chỉ tỉnh giấc khi bản Flight From The City đang dâng lên trong phòng như nước biển. Tiếng piano rớt rơi chậm rãi, từng nốt đều có đủ không gian để vang lên rồi trầm xuống. Một bản nhạc riêng tư, gần gũi vô bờ. Nàng thấy mình đang nằm trong lòng Lữ. Đầu ông gác lên vào tay ghế, còn nàng thì đang tựa đầu lên cánh tay vai ông. Vòng tay ông vẫn giữ chặt quanh người nàng, hai người gần nhau không một kẽ hở. Nàng chợt hiểu, nãy giờ, Lữ đã ôm nàng dưới giếng sâu.

Nàng nhẹ nhàng ngồi dậy, kéo tay Lữ ra khỏi người mình, cởi áo khoác gửi lại cho ông. Lữ vẫn nhìn nàng chăm chú, như thể không còn gì quan trọng hơn nàng trong phút giây này.

Nàng đột nhiên đứng dậy. “Xin lỗi, tôi không yêu ông.”

Ngưng lại một lúc, nàng tiếp tục: “Tôi không thể yêu ông.”

“Tôi biết dù có thế nào, những gì ông muốn làm đều sẽ phải làm được. Nếu ông cần giết tôi, thì dù có yêu hay không yêu, tôi cũng không thoát khỏi. Nhưng nếu tôi mở lòng ra với ông, tôi sẽ đau nhiều hơn cả cái chết.”

Nàng giữ giọng mình bình tĩnh hết sức có thể. Lữ im lặng nhìn nàng mặc lại từng lớp giả hình phòng bị của bản thân, mang lại giày, bước vội ra khỏi gian phòng nhỏ. Nàng bước ra ngoài, ngắm nhìn chiều dần buông và các toà cao ốc dần đổ bóng đen dài trên phố. Nàng biết mình bắt đầu chết.